Băn khoăn về một số đơn vị kiến thức ở bài 3 - Ngữ văn 6, bộ Chân trời sáng tạo

26/11/2022 06:42
NGUYÊN KHANG
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Đã là một chủ đề thì nó phải có tính tương đồng, gần gũi nhau chứ không thể riêng lẻ, rời rạc sẽ khiến cho người dạy, người học gặp những khó khăn nhất định.

Sách giáo khoa Ngữ văn 6- bộ Chân trời sáng tạo do tác giả Nguyễn Thị Hồng Nam làm chủ biên là 1 trong 3 bộ sách giáo khoa đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt để đưa vào giảng dạy ở các trường trung học cơ sở trên cả nước.

Theo tìm hiểu của người viết, sách Ngữ văn- bộ Chân trời sáng tạo được rất nhiều địa phương lựa chọn, nhất là các tỉnh phía Nam nhưng bộ sách này cũng đang tồn tại một số hạn chế mà thời gian qua, trên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã chỉ ra đối với sách Ngữ văn lớp 6, lớp 7 và lớp 10.

Trong bài viết này, người viết xin được trình bày những băn khoăn của mình về một số ngữ liệu văn bản mà các tác giả sách giáo khoa Ngữ văn 6 đã lựa chọn để đưa vào bài (chủ đề) 3: Vẻ đẹp quê hương mà bản thân người viết cho rằng chưa hợp lý, không thống nhất với chủ đề.

Yêu cầu cần đạt được tác giả hướng tới thể thơ lục bát (Ảnh: Nguyên Khang)

Yêu cầu cần đạt được tác giả hướng tới thể thơ lục bát (Ảnh: Nguyên Khang)

Hướng học sinh tìm hiểu, làm thơ, viết cảm nhận về thơ lục bát nhưng ngữ liệu chưa hợp lý

Phần tri thức ngữ văn của bài học (chủ đề) thứ 3, các tác giả sách giáo khoa đã đề cập rất rõ về đặc điểm, cách gieo vần, cách ngắt nhịp, thanh điệu…Các kiến thức đọc, thực hành, viết, nói và nghe cũng chủ yếu đề cập đến thơ lục bát một cách rất cụ thể theo yêu cầu cần đạt của bài học.

Ở phần yêu cầu cần đạt, tác giả sách giáo khoa viết liệt kê khá chi tiết, trong đó có những yêu cầu cần đạt như sau: Nhận biết được các đặc điểm của thể thơ lục bát; bước đầu biết làm bài thơ lục bát; viết được đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát; trình bày được một bài thơ lục bát…

Phần giới thiệu bài 3, các tác giả sách giáo khoa giới thiệu như sau: “Đến với bài học này, các em sẽ tìm hiểu được vẻ đẹp quê hương qua những vần thơ lục bát để thấy được giá trị độc đáo của một thể thơ thuần Việt có từ lâu đời”.

Văn bản 1 của chủ đề 3 được kết hợp từ 4 bài ca dao, rải đều từ kinh thành Thăng Long đến miệt Tháp Mười. Tuy nhiên, bài ca dao thứ 2 chưa thực sự phù hợp về số tiếng, cách gieo vần, cụ thể bài ca dao như sau:

-Em đố anh từ Nam chí Bắc

Sông nào là sông sâu nhất?

Núi nào là núi cao nhất nước ta?

Anh mà giảng được cho ra

Thì anh kết nghĩa giao hòa cùng anh.

-Sâu nhất là sông Bạch Đằng

Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan

Cao nhất là núi Lam Sơn

Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra.

Cách gieo vần, thanh điệu thể thơ lục bát được tác giả sách giáo khoa trình bày (Ảnh: Nguyễn Khang)

Cách gieo vần, thanh điệu thể thơ lục bát được tác giả sách giáo khoa trình bày

(Ảnh: Nguyễn Khang)

Theo văn bản này, phần hỏi của nhân vật “em” thì câu ca dao đầu tiên có 7 tiếng, không đúng với thể loại lục bát. Phần trả lời phía sau, các tiếng thứ 6 của câu lục không gieo vần với tiếng thứ 6 của câu bát. Tiếng thứ 8 của câu bát không gieo vần với tiếng thứ 6 của câu lục.

Đó là chưa kể về kiến thức địa lý, sông Bạch Đằng không phải là sông sâu nhất và núi Lam Sơn cũng không phải là núi cao nhất nước ta.

Vẫn biết, đây là một bài ca dao của cha ông để lại nhưng để làm khuôn mẫu cho học sinh phân tích, nắm về thể loại thơ lục bát- “một thể thơ thuần Việt có từ lâu đời” thì nó chưa thực sự chuẩn mực cả về số câu, cách gieo vần và kiến thức.

Chính vì thế, gây khó khăn cho giáo viên khi phải lý giải cho học sinh bởi các em vừa học tri thức ngữ văn ở đầu chủ đề thì giáo viên đã giảng giải, phân tích, cung cấp tri thức kĩ lưỡng về thể loại, đặc điểm. Trong đó có số chữ, cách gieo vần nhưng khi vào văn bản mẫu thì các tác giả sách giáo khoa lại cung cấp văn bản minh họa như vậy.

Bài đọc mở rộng theo thể loại trong chủ đề 3 cũng gây băn khoăn cho giáo viên

Cho dù chủ đề bài học là Vẻ đẹp quê hương nhưng tác giả sách giáo khoa hướng tới thể loại là thơ lục bát. Vì thế, theo suy nghĩ của chúng tôi, nếu tác giả sách giáo khoa đưa văn bản đồng nhất về thể loại thơ lục bát sẽ phù hợp với mục tiêu cần đạt và dễ cho giáo viên khi định hướng cho học trò.

Thế nhưng, ở phần Đọc kết nối chủ điểm thì tác giả sách giáo khoa lại lấy một bài nghị luận văn học Về bài ca dao Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng của tác giả Bùi Mạnh Nhị. Chúng tôi không đánh giá, phân tích về bài viết của tác giả Bùi Mạnh Nhị vì đây là bài viết hay.

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng tác giả sách giáo khoa đưa vào chủ đề mà chủ yếu là phân tích, hướng dẫn học sinh tập làm thơ, viết cảm nhận về bài thơ lục bát là chưa hợp lý. Bài ca dao có nguyên bản như sau:

Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát

Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông

Thân em như chẽn lúa đòng đòng

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

Dù chúng tôi biết rằng trong ca dao, trong thơ lục bát thì không phải lúc nào cũng phải đúng số chữ, đúng cách gieo vần nhưng ở đây, mỗi bài học (chủ đề) ở sách giáo khoa có 4 văn bản.

Trong đó, có 2 văn bản đầu tiên sẽ được định hướng là khai thác sâu, kĩ; 2 văn bản còn lại là đọc Đọc kết nối chủ điểm và Đọc mở rộng theo thể loại thì giáo viên chỉ hướng tới kĩ năng đọc là chủ yếu.

Thế nhưng, việc lấy một bài nghị luận văn học phân tích một bài ca dao có tới 12-13 tiếng trong chủ đề thơ lục bát dẫn đến khó khăn cho giáo viên trong định hướng, giảng dạy ở một chủ đề chung.

Đó là chưa nói đến, bài ca dao được tác giả Bùi Mạnh Nhị phân tích, bình giảng sẽ quá tầm với một học sinh lớp 6- cho dù nếu đứng riêng đây là bài ca dao hay và đã được người viết cảm nhận khá sâu sắc.

Bởi, nội dung bài ca dao gây ấn tượng với 12 tiếng hai dòng thơ đầu. Cùng với những biện pháp tu từ, thay đổi sự quan sát, ta thấy được sự rộng lớn, mênh mông, trù phú của cánh đồng.

Ở hai dòng cuối, tác giả dân gian cho ta thấy cô gái đáng yêu, mảnh mai trong cánh đồng rộng lớn. Bài ca dao có thể là lời của cô gái bộc lộ lời tự khen thầm kín và hồn nhiên mà cũng có thể là lời của một anh trai làng nào đó bày tỏ tình cảm của mình.

Chúng tôi vẫn biết viết sách giáo khoa là “làm dâu trăm họ”, nhất là đối với sách giáo khoa môn Ngữ văn ở các cấp học phổ thông. Vì thế, chúng tôi chỉ dám nêu lên những băn khoăn của mình và mong muốn tác giả sách giáo khoa (cả 3 bộ sách) cần thận trọng khi đưa văn bản văn học vào từng chủ đề bài học.

Đã là một chủ đề thì nó phải có tính tương đồng, gần gũi nhau chứ không thể riêng lẻ, rời rạc sẽ khiến cho người dạy, người học gặp những khó khăn nhất định.

Một vòng đời sách giáo khoa có tới hàng chục năm trời và có hàng triệu học sinh sẽ học. Nếu sách giáo khoa chuẩn mực, gần gũi sẽ giúp cho học sinh thẩm thấu được trọn vẹn và hiểu cặn kẽ vấn đề. Ngược lại, nếu dùng ngữ liệu chưa phù hợp sẽ khiến cho học sinh khó tiếp cận và mục tiêu của chương trình đặt ra cũng khó đạt được.

Nội dung quan điểm trong bài viết thể hiện góc nhìn của tác giả Nguyên Khang. Để làm sáng tỏ vấn đề, đảm bảo khách quan và đa chiều, Tòa soạn Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam trân trọng mời các thầy cô, các tác giả có liên quan viết bài phân tích làm rõ, bài viết xin gửi về email: toasoan@giaoduc.net.vn.

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

NGUYÊN KHANG