Cả nước đang thiếu 101.745 giáo viên

31/08/2022 06:43
Linh Hương
0:00 / 0:00
0:00
GDVN-Năm học 2021-2022, tổng số giáo viên tại các địa phương là 1.212.684 người. Số giáo viên thừa là 2.161 người và số giáo viên thiếu là 101.745 người.

Trong báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ Giáo dục và Đào tạo thông tin:

Tại Quyết định số 72-QĐ/TW, ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị, năm học 2021-2022, tổng số giáo viên tại các địa phương là 1.212.684 người. Số giáo viên thừa là 2.161 người và số giáo viên thiếu là 101.745 người.

Tổng số biên chế giáo viên giai đoạn 2022 - 2026, Bộ Chính trị giao cho các địa phương là 1.095.527 người và biên chế bổ sung giai đoạn 2022 - 2026 là 65.980 người. Trong đó, năm học 2022-2023, Bộ Chính trị tạm giao cho các địa phương là 27.580 người.

Về vấn đề sắp xếp, tổ chức lại các trường mầm non, phổ thông, hình thành trường phổ thông nhiều cấp học (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông); thu gọn các điểm trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết:

Giáo dục mầm non:

Tổng số trường mầm non công lập là 12.181 trường, trong đó 77,9% số trường có điểm trường, với số trường có nhiều điểm trường lẻ (5 điểm trường) là 1.482 trường, chiếm 12,2% số trường.

Tổng cộng hiện có 205.234 nhóm/lớp và 203.792 phòng chăm sóc, nuôi dạy trẻ (phòng kiên cố và bán kiên cố), tỷ lệ trung bình phòng/nhóm, lớp là 0,99; tổng số điểm trường là 21.236, trung bình có 1,37 điểm trường/trường; quy mô trung bình của một cơ sở giáo dục mầm non là 13,3 lớp, nhóm lớp/trường.

Giáo dục tiểu học:

Tổng số trường tiểu học công lập là 12.527 trường, trong đó 56,2% số trường có điểm trường, với số trường có nhiều điểm trường lẻ (5 điểm trường) là 496 trường, chiếm 3,9% số trường.

Tổng số lớp tiểu học là 278.312 lớp và 267.107 phòng học, tỷ lệ trung bình phòng học/lớp là 0,96; tổng số điểm trường là 13.408, trung bình có 1,9 điểm trường/trường; quy mô trung bình của một cơ sở giáo dục tiểu học là 22,2 lớp/trường.

Ảnh minh hoạ: Phạm Linh

Ảnh minh hoạ: Phạm Linh

Giáo dục trung học cơ sở:

Tổng số trường trung học cơ sở công lập là 8.798 trường, trong đó khoảng 18,2% trường có điểm trường.

Tổng số lớp là 154.764 lớp và 133.924 phòng học, tỷ lệ trung bình phòng học/lớp là 0,87; quy mô trung bình của một cơ sở giáo dục trung học cơ sở là 17,5 lớp/trường.

Giáo dục trung học phổ thông:

Tổng số trường trung học phổ thông công lập là 2.102 trường, trong đó khoảng 6,5% trường có điểm trường.

Tổng số lớp là 62.495 lớp và 58.069 phòng học, tỷ lệ trung bình phòng học/lớp là 0,93; quy mô trung bình của một cơ sở giáo dục trung học phổ thông là 29,7 lớp/trường.

Về sắp xếp, tổ chức lại các Trung tâm Giáo dục thường xuyên: Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số Bộ, ngành liên quan đã tham mưu Chính phủ ban hành Thông tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT-BNV ngày 19 tháng 10 năm 2015 của liên Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ hướng dẫn sáp nhập các Trung tâm dạy nghề, Trung tâm giáo dục thường xuyên và Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp thành Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên. Kết quả, giảm số đơn vị sự nghiệp công lập tại mỗi quận huyện. Cơ bản mỗi quận/huyện chỉ có 01 trung tâm thực hiện các chức năng: giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp và dạy nghề. Theo số liệu năm học 2021- 2022, số trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên trên địa bàn toàn quốc là 554 trung tâm.

Quan điểm chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo khi sắp xếp bao gồm:

Sắp xếp, tổ chức lại, giảm đầu mối, số lượng các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế của mỗi địa phương, địa bàn cụ thể, phù hợp với việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã; rà soát, sắp xếp, điều chỉnh lại quy mô lớp học một cách hợp lý; thu gọn lại các điểm trường lẻ trên nguyên tắc thuận lợi cho người dân và phù hợp với điều kiện thực tế của vùng, miền, địa phương.

Mạng lưới trường học được sắp xếp tinh gọn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, quản trị nhà trường, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, góp phần tinh giản biên chế, đầu mối quản lý, các vị trí việc làm có cùng chức năng nhưng vẫn bảo đảm hoạt động đáp ứng nhu cầu học tập.

Việc dồn dịch, sáp nhập các điểm trường, trường có quy mô nhỏ phải được thực hiện trên nguyên tắc tạo thuận lợi cho người dân, đảm bảo quyền lợi học tập của học sinh; phù hợp với quy hoạch, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, gắn với mục tiêu xây dựng nông thôn mới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Khắc phục tình trạng trường lớp có quy mô quá nhỏ và chất lượng giáo dục chưa cao, từ đó có điều kiện tập trung nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, tránh đầu tư dàn trải, kể cả về đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.

Việc dồn dịch, sáp nhập phải căn cứ vào các quy định về: tiêu chuẩn cơ sở vật chất trường, lớp học; quy mô trường, lớp; số học sinh tối đa, tối thiểu/lớp; tiêu chuẩn giáo viên do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, trong đó có tính đến yếu tố phù hợp với từng vùng, miền và đặc thù của các địa phương. Chỉ sáp nhập đối với những trường có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, thuận lợi về khoảng cách giữa các điểm trường.

Các cơ sở giáo dục thuộc diện dồn dịch, xóa bỏ các điểm trường lẻ cần chuẩn bị đủ cơ sở vật chất ở điểm trường chính (phòng học, phòng ở bán trú, nhà làm việc, nhà công vụ, các công trình bếp, nhà ăn, nhà vệ sinh, hệ thống điện nước…), đặc biệt đối với các trường bán trú và cấp học mầm non, nhằm bảo đảm duy trì, nâng cao chất lượng giáo dục.

Đảm bảo sĩ số học sinh/lớp theo quy định; đồng thời có giải pháp phù hợp thuận lợi, an toàn cho việc đi lại của học sinh khi đến trường; không để xảy ra tình trạng học sinh bỏ học do phải đi lại quá xa.

Việc sáp nhập các trường cần gắn liền với việc thực hiện tinh giản biên chế đồng thời gắn với việc bảo đảm các quy định về định mức số lượng giáo viên mỗi cấp học, chế độ làm việc, chính sách. Rà soát, sắp xếp, điều chỉnh số giáo viên dôi dư sau khi sắp xếp, sáp nhập trường. Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý các trường sau sáp nhập.

Không sáp nhập các cơ sở giáo dục mầm non với các cơ sở giáo dục phổ thông; Không sáp nhập các Trung tâm giáo dục thường xuyên vào các cơ sở giáo dục trung học phổ thông.

Chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, cơ sở vật chất tại những điểm trường được chuyển đi đảm bảo phù hợp với quy hoạch, hiệu quả, tránh lãng phí.

Trước khi tiến hành, cần phải xây dựng đề án cụ thể về việc rà soát, sắp xếp, tổ chức lại cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, trong đó: xác định rõ lộ trình thực hiện; chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cơ sở vật chất; sắp xếp, sử dụng đội ngũ và phương án giải quyết số lượng cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên dôi dư; bảo đảm chất lượng giáo dục; Ban hành chính sách của địa phương như hỗ trợ giáo viên, học sinh... để duy trì kết quả của việc sắp xếp, tổ chức lại cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông.

Làm tốt công tác truyền thông trước khi thực hiện sắp xếp, tổ chức lại cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông.

Linh Hương