Trong phiên thảo luận về 3 dự án luật trong lĩnh vực giáo dục, Đại biểu Quốc hội Đặng Thị Bảo Trinh cho rằng, vấn đề tự chủ thực chất cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp liên quan tới khoản 2 của Điều 4 và các Điều 8, 10 và 35 của dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi). Hiện nay, dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) nêu ra nguyên tắc tự chủ đầy đủ, toàn diện. Tuy nhiên, thực tế vận hành tự chủ vẫn còn chưa tới.
Trên thực tế, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn phải chờ phê duyệt chương trình, danh mục nghề, chỉ tiêu tuyển sinh qua nhiều tầng nấc hành chính. Đáng nói, thị trường lao động hiện nay thay đổi rất nhanh nhưng chương trình đào tạo lại chậm bởi các quy trình thủ tục.
Do đó, Đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh đã đề nghị, chuyển cơ chế phê duyệt sang hậu kiểm có trách nhiệm, giao quyền cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ động xây dựng, cập nhật, ban hành chương trình đào tạo, module, ngành nghề mới, trên cơ sở phù hợp với khung trình độ quốc gia. Bộ quản lý Nhà nước chỉ cần ban hành nguyên tắc, tiêu chuẩn đầu ra và thực hiện kiểm định chất lượng định kỳ, không can thiệp vào danh mục nghề nghiệp cụ thể. Đồng thời, đề xuất bổ sung tại Điều 35 của dự thảo quy định rõ về quyền tự chủ đầu tư, tái đầu tư nguồn thu hợp pháp để nhà trường có điều kiện nâng cấp thiết bị, chuyển đổi công nghệ và phát triển kỹ năng xanh, kỹ năng số.
Bước đi cần thiết để thúc đẩy tự chủ thực chất trong giáo dục nghề nghiệp
Trước đề xuất này, chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thạc sỹ Nguyễn Quang Khải – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Tiền Giang cho biết, rào cản lớn nhất khiến cơ chế tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp hiện nay vẫn chưa "tới nơi, tới chốn" chính là do cơ chế quản lý còn mang tính hành chính, còn tồn tại tư duy "xin - cho". Mặc dù các văn bản pháp lý đang hướng tới trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp về tổ chức, tài chính và học thuật, thế nhưng, thực tế quyền này vẫn bị giới hạn bởi quy trình phê duyệt. Mỗi khi muốn mở ngành/ nghề mới, cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải chờ sự đồng ý của cấp có thẩm quyền.
Điều này dẫn đến hệ quả là cơ sở giáo dục nghề nghiệp khó bắt kịp nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và thị trường lao động. Trên thực tế, thị trường việc làm thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là với các ngành nghề mới như công nghệ tự động hóa, năng lượng xanh hay trí tuệ nhân tạo. Do đó, việc chờ phê duyệt qua các tầng nấc hành chính khiến cơ sở giáo dục nghề nghiệp bỏ lỡ cơ hội đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời; doanh nghiệp vì thế cũng dễ mất kiên nhẫn và tự tổ chức đào tạo nội bộ. Từ đó, làm giảm vai trò của hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực.
Vậy nên, theo thầy Khải, đề xuất chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm trong giáo dục nghề nghiệp là bước đi cần thiết để thúc đẩy tự chủ thực chất, thể hiện niềm tin vào năng lực và trách nhiệm của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Thực tế cho thấy, việc phải chờ phê duyệt chương trình khiến nhiều trường nghề rơi vào tình thế bị động, không thể kịp thời đáp ứng nhu cầu nhân lực đang thay đổi từng ngày của doanh nghiệp và thị trường lao động.
"Cơ chế hậu kiểm không có nghĩa là buông lỏng quản lý, mà là trao quyền đi đôi với trách nhiệm. Khi được tự chủ xây dựng chương trình đào tạo, các trường nghề sẽ có cơ hội phát huy tính sáng tạo, gắn kết chặt chẽ hơn với doanh nghiệp để đào tạo ra nguồn nhân lực thực sự phù hợp với nhu cầu xã hội. Nhà nước giữ vai trò giám sát, định hướng và kiểm tra chất lượng đầu ra, thay vì can thiệp quá sâu vào quá trình thực hiện.
Theo tôi, nếu được trao thực quyền, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần đảm bảo ba điều kiện then chốt: (1) Có đội ngũ lãnh đạo chuyên tâm, minh bạch và dám chịu trách nhiệm. Mọi hoạt động tài chính, nhân sự, chiến lược phát triển cần rõ ràng và hiệu quả; (2) Có đội ngũ giảng viên giỏi, chương trình cập nhật theo nhu cầu doanh nghiệp, và chất lượng đầu ra được kiểm chứng thực tế; (3) Có trách nhiệm với xã hội - đào tạo nghề vì người học, vì cộng đồng, công khai kết quả và sẵn sàng chịu giám sát", thầy Khải bày tỏ.
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải nâng cao năng lực quản trị phải có thể tự chủ, tự chịu trách nhiệm
Trong khi đó, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoằng Bá Huyền – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nông nghiệp Thanh Hóa, việc chuyển từ cơ chế phê duyệt sang hậu kiểm có trách nhiệm, giao quyền cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ động xây dựng, cập nhật và ban hành chương trình đào tạo, mô-đun, ngành nghề mới là xu hướng tất yếu. Cách làm này không chỉ tăng quyền chủ động, linh hoạt, giúp các trường rút ngắn thời gian ra quyết định, mà còn nâng cao hiệu quả trong công tác đào tạo, bởi xét cho cùng, chính các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp về chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên, theo thầy Huyền, vấn đề đặt ra là năng lực quản trị của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đủ để “gánh” trách nhiệm tự chủ này hay không. Nếu việc xây dựng, cập nhật chương trình sai lệch, hậu quả không chỉ cơ sở phải gánh chịu mà xã hội cũng phải gánh. Vì vậy, muốn thực hiện cơ chế này hiệu quả, các trường cần nâng cao năng lực quản trị, đội ngũ, cơ sở vật chất để có khả năng tự chịu trách nhiệm.
Thực tế cho thấy, năng lực giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hiện chưa đồng đều: có nơi làm tốt, nhưng cũng còn không ít trường nghề hạn chế về nhân lực, thiết bị và hệ thống quản lý. Do đó, cần đánh giá kỹ lưỡng mức độ sẵn sàng về năng lực quản trị của từng cơ sở, xác định rõ lộ trình thực hiện, tránh tình trạng “trăm hoa đua nở” khi giao quyền tự chủ mà thiếu cơ chế kiểm soát.
Bên cạnh đó, công tác hậu kiểm phải được thực hiện chặt chẽ, minh bạch và thường xuyên. “Chúng ta nói về việc tự chủ có trách nhiệm và thực hiện hậu kiểm, nhưng nếu buông lỏng, thiếu tiêu chí cụ thể, không giám sát thường xuyên thì việc trao quyền tự chủ sẽ khó đạt được mục tiêu thực chất”, thầy Huyền nhấn mạnh.
Cùng bàn về vấn đề trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đông – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ bày tỏ, rào cản lớn nhất hiện nay đối với vấn đề tự chủ của giáo dục nghề nghiệp không nằm ở tư tưởng hay chính sách “cho hay không cho” tự chủ, mà nằm ở cách thức đo lường và đánh giá kết quả tự chủ (M&E – Measurement & Evaluation). Khi chưa có hệ thống chỉ số đánh giá cụ thể để cơ quan quản lý yên tâm về mức độ đáp ứng kỳ vọng, thì họ buộc phải duy trì cơ chế “tiền kiểm” thay vì “hậu kiểm”.
Trong bất kỳ hệ thống quản trị nào, cách thức đo lường và đánh giá kết quả tự chủ là yếu tố cốt lõi giúp đảm bảo tính minh bạch, công bằng và trách nhiệm giải trình. Nếu Luật Giáo dục nghề nghiệp và các văn bản hướng dẫn sau này không quy định rõ tiêu chí, quy trình và công cụ M&E, thì cơ chế tự chủ sẽ luôn ở trạng thái “nửa vời”: được nói nhiều nhưng làm chưa tới.
Về thực tế chậm phê duyệt ngành nghề và chương trình, thầy Đông đánh giá, đúng là điều này khiến các trường bị chậm nhịp với doanh nghiệp và thị trường lao động. Chính vì vậy, các cơ sở nên chủ động thiết kế chương trình theo mô-đun, linh hoạt, đúng tinh thần của Thông tư số 01/2024/TT-BLĐTBXH quy định về quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình; tổ chức biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng. Trường hoàn toàn có thể phối hợp doanh nghiệp tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn, tối thiểu 3 tháng, dựa trên các mô-đun đã xây dựng; khi chương trình chính thức được phê duyệt thì người học vẫn được công nhận tích lũy mô-đun tín chỉ. Đây chính là cách để thực thi “tự chủ thực chất” trong khuôn khổ hiện có.
Theo thầy Đông, về nguyên tắc, việc chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm là xu thế tất yếu. Nhưng để hậu kiểm có hiệu quả, vẫn cần nền tảng M&E rõ ràng, đo lường được, định lượng được và công khai được.
Khi mọi cơ sở giáo dục nghề nghiệp đều hiểu rõ bộ tiêu chí và cách đánh giá, họ sẽ có cơ sở tự chịu trách nhiệm với kết quả đào tạo của mình. Như vậy, hậu kiểm không còn là “buông lỏng”, mà là “giám sát thông minh” – vừa đảm bảo quyền tự chủ, vừa duy trì trách nhiệm giải trình.
Điều kiện để thực hiện thành công mô hình này là cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có năng lực chuyên môn thực sự, thể hiện qua chương trình đào tạo gắn với vị trí việc làm, giúp người học làm được việc, làm đúng nghề sau khi tốt nghiệp; Bộ tiêu chí kiểm định phải cụ thể, định lượng được, để các trường dựa vào đó tự đánh giá và điều chỉnh liên tục; Năng lực quản trị nội bộ của nhà trường phải đủ mạnh để tổ chức, giám sát và cải tiến liên tục quy trình dạy – học.
Giúp sử dụng hiệu quả nguồn lực, minh bạch tài chính, xây dựng nền giáo dục nghề nghiệp năng động
Mặt khác, theo thầy Khải, việc bổ sung quy định rõ về quyền tự chủ đầu tư và tái đầu tư nguồn thu hợp pháp tại Điều 35 của dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) sẽ mang lại cú hích mạnh mẽ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Khi được chủ động sử dụng nguồn thu, các trường có thể nhanh chóng nâng cấp thiết bị, đổi mới phòng học, xưởng nghề, ... mà không phải chờ đợi thủ tục phê duyệt kéo dài. Điều này giúp đào tạo bắt kịp sự phát triển của công nghệ và nhu cầu nhân lực mới.
Quan trọng hơn, quyền tái đầu tư tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo chuyển đổi sang mô hình dạy học số, phát triển kỹ năng xanh và kỹ năng số cho người học. Đó là những năng lực cốt lõi trong thời kỳ công nghiệp 4.0. Nhà trường có thể chủ động hợp tác với doanh nghiệp, đầu tư vào thiết bị hiện đại, xây dựng trung tâm thực hành thông minh. Khi được trao quyền gắn với trách nhiệm, các cơ sở sẽ sử dụng hiệu quả nguồn lực, minh bạch tài chính và góp phần xây dựng một nền giáo dục nghề nghiệp năng động, sáng tạo và bền vững trong thời đại chuyển đổi số.
Tóm lại, để cơ chế tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp thật sự hiệu quả, thầy Khải cho rằng, trước hết, cần hoàn thiện khung pháp lý và phân cấp mạnh mẽ, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm có trách nhiệm, trao quyền thực chất cho các cơ sở có năng lực và uy tín, đồng thời quy định rõ trách nhiệm giải trình.
Bên cạnh đó, nâng cao năng lực quản trị và tài chính. Các trường cần được hỗ trợ về kỹ năng quản lý hiện đại và được phép sử dụng, tái đầu tư nguồn thu hợp pháp để nâng cấp thiết bị, chuyển đổi số và đào tạo kỹ năng mới.
Ngoài ra, cần tăng cường gắn kết với doanh nghiệp và xã hội. Khi nhà trường - doanh nghiệp - Nhà nước cùng đồng hành, chương trình đào tạo sẽ sát thực tế hơn, sinh viên ra trường có việc làm, và tự chủ sẽ trở thành động lực thực sự cho sự phát triển bền vững của giáo dục nghề nghiệp .
Thầy Đông cũng đồng tình rằng, quy định rõ ràng về quyền tự chủ đầu tư và tái đầu tư nguồn thu hợp pháp là bước then chốt để thúc đẩy phát triển bền vững.
Cụ thể, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần được nhìn nhận như một tổ chức kinh tế – xã hội đặc thù, vận hành theo cơ chế doanh nghiệp trong lĩnh vực đào tạo. Khi được phép chủ động đầu tư và tái đầu tư, nhà trường có thể nhanh chóng nâng cấp thiết bị, phòng học, xưởng thực hành theo yêu cầu công nghệ mới; Chuyển đổi số trong quản lý, giảng dạy và đánh giá; Và đặc biệt, phát triển năng lực đào tạo kỹ năng xanh, kỹ năng số – những năng lực nền tảng cho lực lượng lao động trong tương lai.
Khi tư duy vận hành được thay đổi theo hướng “hiệu quả – minh bạch – bền vững”, cơ sở giáo dục sẽ tự động hướng tới chất lượng, vì doanh nghiệp và người học chính là khách hàng của họ.
Thầy Đông cũng đưa ra một số đề xuất, góp ý thêm về vấn đề tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp.
Thứ nhất, tự chủ phải đi đôi với minh bạch về mục tiêu, kết quả đầu ra, năng lực đội ngũ, và cơ chế tài chính.
Thứ hai, cần sớm ban hành khung cách thức đo lường và đánh giá kết quả tự chủ thống nhất, bao gồm bộ chỉ số, quy trình hậu kiểm, và cơ chế đánh giá độc lập để tránh hình thức.
Thứ ba, khuyến khích mô hình liên kết doanh nghiệp – trường nghề, trong đó tự chủ của trường nghề được thể hiện qua khả năng thiết kế chương trình và đào tạo theo nhu cầu thực tiễn, thay vì chỉ “chạy theo danh mục”.
Cuối cùng, cần xem tự chủ không phải là đặc quyền, mà là trách nhiệm: trách nhiệm với người học, doanh nghiệp, và với xã hội trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, thích ứng nhanh với thay đổi của nền kinh tế.