Chuẩn yêu cầu GV toàn thời gian được bố trí 6m2/thầy cô, trường đại học kêu khó

03/09/2024 06:15
Doãn Nhàn
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Nhiều ý kiến cho rằng cần tạo điều kiện linh hoạt cho các cơ sở giáo dục đại học, tránh dập khuôn, máy móc khi áp dụng bộ chuẩn với các trường.

Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học chính thức được áp dụng cho các cơ sở giáo dục đại học từ năm 2025. Đây được xem là thước đo tối thiểu mà cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng để được xác định đạt chuẩn chất lượng. Tuy nhiên, đến nay nhiều tiêu chuẩn, tiêu chí đặt ra tại Thông tư vẫn là một bài toán “không lời giải” với nhiều cơ sở giáo dục đại học.

Trong đó, quy định ít nhất 70% giảng viên toàn thời gian được bố trí chỗ làm việc riêng biệt, tối thiểu 6m2/thầy cô là một trong những khó khăn, thách thức lớn với nhiều trường.

Một trong những “nút thắt” của vấn đề này nằm ở quỹ đất vốn có phần hạn chế, và không thể “nở ra” tiếp được của các trường đại học, nhất là với những trường nằm ở khu vực nội thành có lịch sử xây dựng lâu đời.

Chỗ làm việc cho giảng viên nên hiểu như thế nào?

Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lâm Nhân - Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh cho hay, đặc thù các trường khối văn hóa nghệ thuật thường đóng ở khu vực trung tâm thành phố để sinh viên vừa có thể học vừa thực hành.

Mặt khác, nếu có thể xin thêm đất ở khu vực xa trung tâm như Củ Chi (huyện ngoại thành thuộc thành phố Hồ Chí Minh), hay tỉnh Đồng Nai, Bình Dương,... thì cũng rất khó để tuyển sinh.

“Đặc thù đào tạo nghệ thuật là phải gắn với thực hành, sinh viên vừa học vừa kết hợp đi biểu diễn thực tế để rèn dũa. Mà các sự kiện nghệ thuật, văn hóa đa số được tổ chức ở khu vực trung tâm, còn vùng ven thực tế có rất ít. Vậy nên nếu trường ở khu vực ngoại thành thì sẽ rất khó để tuyển sinh”, vị lãnh đạo phân tích.

Khuôn viên Trường Đại học Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường
Khuôn viên Trường Đại học Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường

Theo Phó Giáo sư Lâm Nhân, để thực hiện bố trí đủ 6m2 cho mỗi giảng viên như quy định Thông tư 01 là rất khó với điều kiện của nhà trường hiện nay.

“Giảng viên cần có chỗ làm việc riêng là hợp lý, nhưng mỗi người đủ 6m2 thì rất khó với nhà trường. Hơn nữa, cơ sở vật chất đều đã xây dựng hết rồi, nguồn lực để xây dựng thêm cũng là một bài toán không dễ”, Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh bày tỏ.

Trong khi đó, lãnh đạo một trường đại học ở phía Bắc lại nhấn mạnh cần làm rõ nội hàm, định nghĩa “chỗ làm việc” của giảng viên. Theo vị lãnh đạo, phần lớn giảng viên dành thời gian ở giảng đường, phòng thí nghiệm,... Vì vậy, chỗ làm việc của giảng viên cần được tính kết hợp không gian giảng đường, phòng thí nghiệm, thư viện, văn phòng khoa,...

“Không nên áp dụng máy móc, cứng nhắc chỗ làm việc của giảng viên là bố trí khu riêng biệt với diện tích 6m2 mỗi người. Thực tế phần lớn giảng viên dành thời gian trên giảng đường hoặc các phòng thí nghiệm, vì vậy việc bố trí khu riêng biệt với diện tích 6m2 cho mỗi giảng viên có thể gây lãng phí”, vị lãnh đạo nêu quan điểm.

Vì vậy, vị lãnh đạo đề xuất cần tạo điều kiện linh hoạt cho các cơ sở giáo dục đại học, tránh dập khuôn, máy móc khi áp dụng bộ chuẩn với các trường.

“Điều quan trọng hơn cần tập trung để nâng cao chất lượng giảng dạy với giảng viên đó là tạo môi trường lành mạnh để các thầy cô học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn, có điều kiện tích lũy và phát triển bản thân”, vị lãnh đạo nêu quan điểm.

Không nên quy định cứng 6m2/người

Cùng trao đổi về vấn đề này, Tiến sĩ Phạm Hiệp - Trưởng nhóm Nghiên cứu đổi mới giáo dục Reduvation, Trường Đại học Thành Đô bày tỏ quan điểm đồng tình về việc cần bố trí chỗ làm việc đầy đủ cho giảng viên. Song Tiến sĩ Phạm Hiệp cũng cho rằng không nên quy định “cứng” tối thiểu 6m2 cho mỗi giảng viên.

“Thực tế bấy lâu nay, chuyên viên thì có bàn làm việc, còn giảng viên thì không. Trong khi đó, giảng viên là người cung cấp dịch vụ chính ở trường đại học”, Tiến sĩ Phạm Hiệp nêu thực tế.

AI7I2526_1.jpg
Ảnh minh họa: VNU

Nhắc lại trải nghiệm thực tế của mình, Tiến sĩ Phạm Hiệp kể về một số bất tiện khi các trường đại học không có không gian làm việc riêng cho giảng viên.

“Có những khi tôi muốn để lại laptop ở trường, tránh mang đi mang lại nặng, nhưng không có chỗ để vì không có chỗ làm việc riêng cho từng giảng viên, phòng chờ cho giảng viên lại không có bàn riêng hay ngăn tủ để cất đồ”, Tiến sĩ Phạm Hiệp chia sẻ.

Ngoài thời gian ở giảng đường, giảng viên còn nhiều công việc khác như soạn giáo án, nghiên cứu, trao đổi với sinh viên, sinh hoạt chuyên môn,... Vì vậy, Tiến sĩ Phạm Hiệp cho rằng việc các trường bố trí không gian làm việc cho giảng viên là điều hợp lý.

Tuy nhiên, vị Trưởng nhóm nghiên cứu cũng cho rằng chỉ cần bố trí bàn làm việc đầy đủ cho mỗi giảng viên, vấn đề diện tích cụ thể nên linh hoạt để tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học sắp xếp dựa theo điều kiện thực tế của từng trường.

“Vấn đề diện tích từng khu làm việc cho giảng viên có thể cân nhắc bố trí 2-3 giảng viên cùng một chỗ theo từng đơn vị, vì đặc thù giảng viên không phải ngày nào cũng lên trường.

Nhưng tiến tới các giáo sư, phó giáo sư phải có phòng làm việc riêng, để các thầy cô có không gian làm việc, trao đổi học thuật, hướng dẫn các nghiên cứu sinh, hay tiếp khách,... Phòng làm việc không cần quá rộng, từ 7-10m2, hoặc thậm chí 6m2. Có thể bố trí 1 người/phòng hoặc 2 người/phòng, tùy điều kiện mỗi trường.

Điều này giúp tạo không gian riêng tư, thể hiện sự tôn trọng, tạo môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động sáng tạo học thuật của các giáo sư, phó giáo sư”, Tiến sĩ Phạm Hiệp đề xuất.

Chia sẻ thêm, vị Trưởng nhóm nghiên cứu cho hay, ở một số nước trên thế giới, các giáo sư, phó giáo sư đều có phòng làm việc riêng. Còn giảng viên trẻ, nghiên cứu sinh sẽ được bố trí ngồi tại các dãy bàn có các hộc tủ để đồ riêng, có cả máy in, khu vực nghỉ ngơi, khu bếp để hâm nóng đồ ăn hay pha nước, cà phê,...

Ngoài yêu cầu về chỗ làm việc của giảng viên, quy định về tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ, tính trên số giảng viên toàn thời gian cũng là một vấn đề nan giải với không ít trường.

Thông tư 01 quy định tỉ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ là không thấp hơn 20% và từ năm 2030 không thấp hơn 30% đối với các cơ sở giáo dục đại học không đào tạo tiến sĩ; không thấp hơn 5% và từ năm 2030 không thấp hơn 10% đối với các trường đào tạo ngành đặc thù không đào tạo tiến sĩ;

Tỉ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ là không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% đối với các cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ; không thấp hơn 10% và từ năm 2030 không thấp hơn 15% đối với các trường đào tạo ngành đặc thù có đào tạo tiến sĩ.

Phó giáo sư Lâm Nhân cho hay đây cũng là một thách thức lớn đối với các trường đào tạo khối ngành đặc thù như văn hóa, nghệ thuật.

Chia sẻ thêm về một số khó khăn từ quy định hiện hành, vị hiệu trưởng cho hay, trước đây, Nghị định 141/2013/NĐ-CP cho phép giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và giảng viên có trình độ tiến sĩ đang công tác tại cơ sở giáo dục đại học được kéo dài thời gian công tác từ 5-10 năm, điều này là hợp lý.

Tuy nhiên, Nghị định 50/2022/NĐ-CP ra đời đã không còn cho phép các giảng viên là tiến sĩ được kéo dài thời gian 5 năm như trước đây. Các giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư cũng chỉ còn được kéo dài 5 năm, đây là một sự lãng phí chất xám rất lớn.

Theo Phó giáo sư Lâm Nhân, để đào tạo được một tiến sĩ thuộc khối ngành nghệ thuật không phải dễ, và càng khó khăn hơn để có các giáo sư, phó giáo sư. Vì vậy, đây là một sự lãng phí chất xám rất lớn.

Doãn Nhàn