Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa công bố dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm thực hiện đột phá phát triển giáo dục đào tạo (sau đây gọi là dự thảo Nghị quyết) để lấy ý kiến góp ý theo quy định.
Dự thảo Nghị quyết được xây dựng nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách lớn về giáo dục và đào tạo, trong đó, có Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Dự thảo Nghị quyết tập trung giải quyết khó khăn, bất cập hiện nay và đề ra những chính sách mang tính đột phá, chiến lược để phát triển giáo dục đào tạo đồng bộ, hiện đại, hội nhập.

Dự thảo Nghị quyết đề xuất 6 nhóm chính sách trọng tâm, trong đó:
Về nhân lực và quản trị cơ sở giáo dục, chính sách quy định cơ quan quản lí trực tiếp thực hiện bổ nhiệm lãnh đạo các cơ sở giáo dục, đồng thời giao Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo thẩm quyền về quản lí, sử dụng đội ngũ nhà giáo, cán bộ, nhân viên mầm non và phổ thông. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành tiêu chuẩn, tiêu chí đối với Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo.
Dự thảo Nghị quyết cũng đề xuất chính sách nhân lực đặc thù gồm phụ cấp ưu đãi cho nhà giáo, cơ chế tuyển dụng – đãi ngộ linh hoạt để thu hút nhân lực chất lượng cao và cơ chế đồng cơ hữu trong khai thác nguồn nhân lực. Chính sách hướng tới xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lí đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn khu vực và quốc tế, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập.
Về chương trình, nội dung và cơ chế phát triển giáo dục, chính sách quy định Chính phủ quyết định chủ trương lớn, cải cách chương trình giáo dục, cơ chế đặt hàng đào tạo với doanh nghiệp và hệ thống công nhận kết quả học tập, tín chỉ, chứng chỉ, kỹ năng, bảo đảm liên thông và học tập suốt đời. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo báo cáo thường niên với Chính phủ, chỉ đạo đổi mới chương trình mầm non, cho phép thí điểm các mô hình giáo dục mới, Hội đồng kỹ năng nghề, và chương trình đại học mở, linh hoạt gắn với thị trường lao động.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm quyết định một bộ sách giáo khoa phổ thông thống nhất, đồng thời rà soát, chỉnh sửa nội dung phù hợp thực tiễn. Chính phủ quy định chi tiết về chính sách áp dụng cơ chế đặc thù trong đào tạo văn hóa, nghệ thuật, thể thao thành tích cao, báo chí – xuất bản, với tuyển chọn theo năng khiếu, chuẩn nghề nghiệp riêng, ưu tiên đầu tư và đãi ngộ theo thành tích.
Về chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục, chính sách thí điểm mô hình hợp tác Nhà nước – nhà trường – doanh nghiệp để xây dựng Nền tảng giáo dục quốc gia thông minh, phục vụ quản trị, đổi mới dạy học, kiểm tra, đánh giá. Phát triển hệ thống thông tin giáo dục và nhân lực quốc gia, kết nối với cơ sở dữ liệu thị trường lao động và dữ liệu khoa học – công nghệ nhằm dự báo cung cầu nhân lực, nâng cao hiệu quả quản lí. Thí điểm cơ chế sử dụng ngân sách và huy động chuyên gia trong, ngoài nước để phát triển công nghệ chiến lược, triển khai mô hình đại học số, chia sẻ nguồn lực giữa các cơ sở đào tạo. Đồng thời, xây dựng cơ chế hợp tác ba bên để đầu tư phòng thí nghiệm dùng chung, tăng cường đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, ưu tiên các lĩnh vực then chốt.
Về hội nhập quốc tế trong giáo dục đào tạo, chính sách thí điểm miễn thị thực và giấy phép lao động trong 05 năm cho chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài có trình độ tiến sĩ tham gia quản lí, giảng dạy, nghiên cứu tại cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp.
Một số cơ sở giáo dục đại học trọng điểm được quyền xác nhận trường hợp chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động và chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của văn bằng, điều kiện làm việc. Các cơ sở giáo dục được tự tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế theo quy định mà không cần xin phép, chỉ thực hiện thông báo với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Chính sách khuyến khích liên kết giữa cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và các trường đại học nước ngoài thuộc top 500 thế giới để thành lập phân hiệu tại Việt Nam theo phương thức PPP. Đồng thời, cho phép sinh viên quốc tế học tập tại Việt Nam được làm thêm tối đa 20 giờ/tuần.
Về Quỹ học bổng Quốc gia, chính sách quy định thành lập Quỹ học bổng quốc gia trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo với nguồn hình thành từ ngân sách nhà nước, đóng góp, tài trợ, viện trợ và các nguồn hợp pháp khác. Quỹ có nhiệm vụ cấp học bổng tài năng, hỗ trợ phát triển nhân lực chất lượng cao; khuyến khích học tập, nghiên cứu của học sinh, sinh viên, nhà giáo; hỗ trợ phát triển kĩ năng nghề gắn với nhu cầu thị trường lao động và hội nhập quốc tế. Đồng thời, Quỹ phát huy hiệu quả các quỹ khuyến học, khuyến tài, quỹ phát triển kĩ năng từ ngân sách và xã hội hóa. Chính phủ ban hành quy chế tổ chức, quản lí, sử dụng Quỹ bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, có kiểm toán độc lập và quy định trách nhiệm phối hợp, giám sát giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan.
Về tài chính và đầu tư cho giáo dục đào tạo, chính sách quy định ngân sách nhà nước dành tối thiểu 20% tổng chi cho giáo dục, trong đó chi đầu tư phát triển tối thiểu 5%, chi cho giáo dục đại học tối thiểu 3%. Ưu tiên ngân sách cho mầm non, phổ thông, vùng đặc biệt khó khăn, đồng thời bảo đảm đầu tư cho đại học, nghề nghiệp và thường xuyên theo hướng nhân lực chất lượng cao. Xây dựng cơ chế tài chính đặc biệt để thực hiện giáo dục bắt buộc hết trung học cơ sở vào 2030, phổ cập trung học phổ thông vào 2035, hỗ trợ cơ sở trọng điểm, khoa học – công nghệ và giáo dục đặc thù. Bảo đảm miễn phí sách giáo khoa trước 2030, miễn học phí môn Giáo dục quốc phòng – an ninh. Thực hiện ưu đãi vượt trội về đất đai, thuế, cơ sở vật chất và trao thẩm quyền đầu tư công trung hạn cho Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Khoản 1 và 2, Điều 3 của Dự thảo quy định về tổ chức hệ thống, nhân lực và quản trị cơ sở giáo dục như sau:
1. Sắp xếp, tái cấu trúc hệ thống cơ sở giáo dục công lập
a) Tiếp tục sắp xếp, tái cấu trúc cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên công lập (trừ cơ sở giáo dục trực thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao); hợp nhất trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên thành trường trung học nghề theo khu vực liên phường, xã; thực hiện theo hướng giảm đầu mối, gắn trách nhiệm quản lý chuyên môn với nhân sự và tài chính, xóa bỏ cấp trung gian, bảo đảm hệ thống quản trị tinh gọn, thống nhất, hiệu quả;
b) Bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp quản lý các đại học, trường đại học trọng điểm hoặc đã được quy hoạch là cơ sở giáo dục đại học trọng điểm quốc gia về kỹ thuật và công nghệ được giao dẫn dắt mạng lưới trung tâm đào tạo xuất sắc và tài năng, trường cao đẳng thực hiện chức năng trung tâm vùng, trung tâm quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao;
c) Bộ Y tế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý cơ sở giáo dục đại học đào tạo chuyên sâu đặc thù;
d) Chuyển các cơ sở giáo dục còn lại về địa phương quản lý, bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính;
đ) Nghiên cứu sáp nhập các viện nghiên cứu với các cơ sở giáo dục đại học (trừ tổ chức khoa học công nghệ công lập đặc thù).
2. Cơ quan quản lý trực tiếp bổ nhiệm Giám đốc, Phó Giám đốc, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp công lập theo quy định của Đảng và pháp luật có liên quan. Đối với Đại học Quốc gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ nhiệm Giám đốc, Phó Giám đốc.
Trong giai đoạn chuyển tiếp khi bãi bỏ Hội đồng trường, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định tiêu chuẩn, tiêu chí, thời hạn bổ nhiệm và quyết định số lượng cấp phó của người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp công lập.
Xem toàn văn Dự thảo Nghị quyết TẠI ĐÂY.