Nghị quyết 71 tạo đột phá phát triển giáo dục nghề nghiệp, tháo gỡ các điểm nghẽn

12/09/2025 14:16
Bài và ảnh: Mộc Trà
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN-Nghị quyết số 71 với tư duy đổi mới về tự chủ, tạo đột phá phát triển GDNN theo tinh thần kiến tạo phát triển, tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt.

Nghị quyết 71 tạo đột phá phát triển giáo dục nghề nghiệp

Đó là một trong các nội dung tham luận, thảo luận được các đại biểu, chuyên gia đề cập tại Hội thảo “Định hướng quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp” do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ (Bắc Ninh) tổ chức vào chiều ngày 11/9.

gdvn-thuc-hanh.jpg
Sinh viên Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ (Bắc Ninh).

Tiến sĩ Phạm Đỗ Nhật Tiến - chuyên gia giáo dục đến từ Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam chia sẻ tham luận “Tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trước yêu cầu cải cách, hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao”.

Tiến sĩ Phạm Đỗ Nhật Tiến đề cập đến mối quan hệ tương hộ và cân bằng giữa tự chủ và trách nhiệm giải trình: “Quan hệ tương hỗ: Trách nhiệm giải trình để bảo đảm quyền tự chủ được thực hiện đáp ứng sứ mệnh, nhiệm vụ, mục tiêu của cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Quan hệ cân bằng: Tự chủ toàn diện, đầy đủ đòi hỏi giải trình ở mức cao nhất.

Cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải công bố hệ thống KPI và chỉ tiêu thực hiện.

Phải báo cáo định kỳ về kết quả thực hiện trên cơ sở dữ liệu qua hệ thống TVET-MIS.

Công khai minh bạch tài chính, kết quả kiểm toán, kiểm định chất lượng”.

gdvn-bac-tien.jpg
Tiến sĩ Phạm Đỗ Nhật Tiến - chuyên gia giáo dục (Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam).

Theo Tiến sĩ Phạm Đỗ Nhật Tiến, mô hình quản trị mới bảo đảm quyền tự chủ toàn diện, đầy đủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Không tổ chức hội đồng trường. Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của tổ chức đảng; thực hiện bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục.

Tiến sĩ Phạm Đỗ Nhật Tiến có một số khuyến nghị: “Một là, Nghị quyết số 71 tạo đột phá phát triển giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần kiến tạo phát triển, tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, cơ chế, chính sách để giáo dục nghề nghiệp chủ động thích ứng và đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới không ngừng nảy sinh trong bối cảnh mới.

Hai là, việc thể chế hóa cần đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa quản lý và kiến tạo phát triển trên cơ sở bảo đảm vai trò, sứ mệnh của giáo dục nghề nghiệp theo đường lối của Đảng và Nhà nước.

Ba là, cần tạo dựng hành lang pháp lý với những quy định cụ thể về: Quyền tự chủ toàn diện và đầy đủ; trách nhiệm giải trình tương xứng với quyền tự chủ; vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của bí thư cấp ủy đồng thời là người đứng đầu cơ sở giáo dục nghề nghiệp; phân cấp, phân quyền trong bộ máy lãnh đạo, quản trị, quản lý của cơ sở giáo dục nghề nghiệp cùng các cơ chế kiểm soát quyền lực đi đôi với phát huy dân chủ cơ sở; cơ chế phối hợp giữa các cấp quản lý nhà nước, tổ chức xã hội nghề nghiệp, doanh nghiệp trong quản trị giáo dục nghề nghiệp.

Bốn là, cần có những chuẩn bị lớn ở cả hệ thống và cấp trường, bao gồm: Tái cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp với việc phân cấp mạnh quản lý các cơ sở giáo dục nghề nghiệp về địa phương; xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý giáo dục nghề nghiệp (TVET-MIS); phát triển hạ tầng số và nền tảng số giáo dục nghề nghiệp; đổi mới quản trị các cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo kết quả đầu ra dựa trên hệ thống KPI; đào tạo, bồi dưỡng năng lực quản trị hiện đại, năng lực số…; xây dựng hệ thống theo dõi học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp.

Năm là, cần một lộ trình rõ ràng cùng các cơ chế hỗ trợ và giám sát hiệu quả, để chủ trương bảo đảm quyền tự chủ toàn diện, đầy đủ cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực sự đi vào cuộc sống”.

Tham gia chia sẻ tại hội thảo, Tiến sĩ Trương Đức Cường - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật trang trí Đồng Nai (một đơn vị có bề dày 122 năm) đã trình bày tham luận “Kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý về tự chủ và trách nhiệm giải trình trong giáo dục nghề nghiệp”.

gdvn-cuong.jpg
Tiến sĩ Trương Đức Cường - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật trang trí Đồng Nai.

Tiến sĩ Trương Đức Cường nêu, quá trình thực hiện cho thấy sự thiếu đồng bộ giữa các luật liên quan như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Nhà giáo, Luật Giáo dục nghề nghiệp. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung luật để tăng cường phân cấp, phân quyền và đảm bảo tính liên thông. Việc này nhằm đưa chính sách, pháp luật vào thực tiễn hiệu quả hơn.

Về cơ chế tự chủ và trách nhiệm giải trình: Quy định về tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm nhiều nội dung từ chính sách người dạy, người học, doanh nghiệp, hợp tác quốc tế, đến quy định về chương trình, học phí, và quản lý chất lượng. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được trao quyền tự chủ toàn diện trong chuyên môn và quản trị nội bộ. Tuy nhiên, do mới thực hiện phân cấp, nhiều đơn vị còn lúng túng, nhất là trong chính sách và vận hành. Tồn tại nhiều thủ tục hành chính, khó khăn trong tuyển sinh vùng khó khăn và đào tạo liên thông. Cơ sở vật chất, giáo trình và công tác đảm bảo chất lượng vẫn còn nhiều bất cập chưa được giải quyết triệt để…”.

Vị Hiệu trưởng cũng chia sẻ khó khăn riêng đối với nhà trường: “Theo lộ trình phát triển, quy mô của nhà trường đến năm 2030 là 1.000 học sinh, sinh viên. Trước đây, nhà trường có 80 cán bộ, giảng viên. Nhưng theo yêu cầu giảm đầu mối, giảm nhân sự (với tỉ lệ 20%) của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, nhà trường phải giảm dần số lượng cán bộ, giảng viên.

Trước đây, chúng tôi có 80 cán bộ, giảng viên, sau đó xuống 70, rồi 65 và giờ là 60, cũng chưa biết có giảm tiếp không Trong khi nhà trường vẫn phải đảm bảo 100% quy mô tuyển sinh, nhưng biên chế bị khống chế, ngân sách thì giảm do phải tự chủ một phần.

Theo Tiến sĩ Trương Đức Cường, không chỉ Trường Cao đẳng Mỹ thuật trang trí Đồng Nai, mà nhiều đơn vị giáo dục nghề nghiệp khác của ngành công nghiệp văn hóa (múa, xiếc, âm nhạc…) đang khổ sở do phải hoàn toàn phụ thuộc vào bầu sữa ngân sách. Nhà nước cấp tiền cho thì làm, không cấp thì dừng.

Vị Hiệu trưởng cũng đặt vấn đề: Nếu tự chủ mà đồng nghĩa với dừng cấp ngân sách, thì những trường đó liệu có thể tồn tại? Việc xây dựng và gìn giữ nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, giữ lấy những làng nghề truyền thống, bằng nguồn lực nào?

Tiến sĩ Trương Đức Cường kiến nghị: “Để giáo dục nghề nghiệp tồn tại và phát triển bền vững, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật liên quan… Nhưng, hành lang pháp lý còn cồng kềnh, trùng lặp và thiếu tính đồng bộ. Cần tích hợp, sửa đổi, bổ sung các luật và văn bản dưới luật để phù hợp với thực tiễn. Nhiều thông tư của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (trước đây) tuy còn hiệu lực nhưng nội dung đã lạc hậu, cần được cập nhật kịp thời.

Quyết định số 749/QĐ-TTg năm 2020 yêu cầu các cơ sở giáo dục nghề nghiệp triển khai chuyển đổi số toàn diện, biến công nghệ thông tin từ công cụ hỗ trợ thành bộ phận hữu cơ trong giảng dạy và quản lý. Giáo dục nghề nghiệp cần đổi mới chương trình đào tạo linh hoạt, cập nhật kỹ năng số, tăng cường liên kết với doanh nghiệp và ứng dụng công nghệ số trong tuyển sinh, đào tạo.

Phương pháp giảng dạy cần kết hợp trực tuyến - trực tiếp, có chuẩn kỹ năng số cho giáo viên và nội dung học tập số hóa. Hạ tầng công nghệ, phần mềm và học liệu số cần được đầu tư, ban hành hướng dẫn và chế độ bản quyền rõ ràng. Quản lý giáo dục phải số hóa toàn diện, đơn giản hóa hồ sơ, chuẩn hóa biểu mẫu và phù hợp với chiến lược chuyển đổi số quốc gia.

Cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải thực hiện nghiêm túc việc báo cáo và cập nhật dữ liệu theo Thông tư 24/2018/TT-BGDĐT và Thông tư số 42/2021/TT-BGDĐT thông qua hệ thống báo cáo trực tuyến. Thông tin, số liệu phải đầy đủ, chính xác, để phục vụ thống kê giáo dục đầu năm học. Đồng thời, cần công khai minh bạch các chính sách về người dạy, người học, doanh nghiệp và hợp tác quốc tế.

Việc công khai cũng bao gồm tuyển sinh, tốt nghiệp, học phí, quản lý nguồn lực và trách nhiệm giải trình. Các quy định liên quan đến văn bằng, chương trình đào tạo, phương thức tổ chức đào tạo cũng phải được thông tin rõ ràng, minh bạch.

Cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải thực hiện tiếp dân đúng quy trình, tiếp nhận và xử lý phản ánh của người dân, học sinh, phụ huynh, doanh nghiệp đúng quy định pháp luật. Công tác tự đánh giá và kiểm định chất lượng được coi là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng”.

Bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện, không phụ thuộc mức độ tự chủ tài chính

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Dương Quý Sỹ - Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng chia sẻ tham luận về “Định hướng quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW”.

Theo Giáo sư Dương Quý Sỹ, Nghị quyết số 71 đã nhấn mạnh “Giáo dục nghề nghiệp là trụ cột phát triển nhân lực kỹ năng, gắn chặt với nhu cầu doanh nghiệp và thị trường lao động”, bảo đảm liên thông hiệu quả trong 8 bậc của khung trình độ quốc gia và tương thích khung khu vực/quốc tế.

Như vậy, theo tinh thần của Nghị quyết số 71, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được chủ động quyết định và tổ chức thực hiện việc dạy - học phù hợp điều kiện của mình, chủ động trong tuyển dụng, bổ nhiệm lãnh đạo/quản lý và thu hút nhân lực chất lượng cao trong nước và từ nước ngoài; tự chủ học thuật, chương trình, mô-đun kỹ năng nghề, đào tạo song ngữ, đào tạo gắn kết với doanh nghiệp; tự chủ tài chính gắn cơ chế đặt hàng theo kết quả; đồng thời phải tự chịu trách nhiệm thông qua kiểm định độc lập, công khai dữ liệu, chuyển đổi số hệ sinh thái giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời và mở rộng hợp tác quốc gia và quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo và gắn với việc làm, hướng tới hội nhập khu vực/quốc tế trong giáo dục nghề nghiệp…

Nghị quyết số 71 đã mang lại quan điểm đổi mới mang tính đột phá cho phát triển giáo cụ nghề nghiệp, lấy “tự chủ đi kèm trách nhiệm giải trình” và hội nhập theo chuẩn khu vực/quốc tế làm mục tiêu xuyên suốt.

Về thể chế và quản trị, Nghị quyết số 71 yêu cầu đẩy mạnh phân cấp - phân quyền gắn với cơ chế giám sát, kiểm tra hiệu quả, chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị hiện đại, tinh gọn bộ máy, làm rõ vai trò chủ thể lãnh đạo và thẩm quyền chịu trách nhiệm ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, vận hành theo mục tiêu - kết quả, tinh gọn các thủ tục hành chính.

Điểm mới nổi bật trong quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 71-NQ/TW là tính đột phá về tư duy chiến lược và chính sách mang tính toàn diện, đồng bộ từ đổi mới thể chế đến cơ chế đặc thù: “bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp, không phụ thuộc mức độ tự chủ tài chính”. Đây thực sự là một quan điểm rất mới.

gdvn-gs-sy.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Dương Quý Sỹ - Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng.

Theo Giáo sư Dương Quý Sỹ, quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 71 có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong việc đạt được mục tiêu: Giáo dục nghề nghiệp được xác định giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng lao động kỹ năng cao, gắn “học đi đôi với hành”, “nhà trường gắn với xã hội”; đến năm 2030, phải có ít nhất 80% cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia, 20% được đầu tư hiện đại tương đương các nước phát triển ở châu Á, tỉ lệ học sau trung học phổ thông đạt 50%, tỉ lệ lao động nghề có trình độ cao đẳng/đại học trở lên đạt 24%; tầm nhìn đến năm 2045 Việt Nam có hệ thống giáo dục nghề nghiệp hiện đại, công bằng và chất lượng, mọi người dân có cơ hội học tập suốt đời, nguồn nhân lực nghề chất lượng cao trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của đất nước, góp phần đưa Việt Nam thành nước phát triển, có thu nhập cao.

Quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp về chuẩn hóa nguồn nhân lực nghề và nghề chất lượng cao cần phải dựa trên các văn bản pháp quy về sự gắn kết chặt chẽ với chuẩn của khung trình độ quốc gia, thúc đẩy liên thông ngang - dọc và công nhận lẫn nhau với khung khu vực/quốc tế, nâng chuẩn đầu ra theo tiêu chí so sánh/đối chiếu tiệm cận với chuẩn năng lực nghề quốc tế…

Do vậy, theo Giáo sư Dương Quý Sỹ, để đạt được mục tiêu chỉ đạo của Nghị quyết 71 về đột phá trong phát triển giáo dục nghề nghiệp gắn liền với đột phá về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần phải linh hoạt, sáng tạo trong quản trị theo hướng tiên tiến; hội nhập sâu rộng khu vực và toàn cầu về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao tính minh bạch và chịu trách nhiệm toàn diện trước người học, doanh nghiệp và xã hội; phấn đấu đạt mục tiêu trước thời hạn theo tinh thần Nghị quyết 71: “đến năm 2045 Việt Nam có hệ thống giáo dục nghề nghiệp hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh đưa Việt Nam thành nước phát triển, có thu nhập cao”.

Tại hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Mạc Văn Tiến - Viện trưởng Viện Phát triển giáo dục nghề nghiệp và an sinh xã hội trình bày tham luận “Kinh nghiệm quốc tế về thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình trong giáo dục nghề nghiệp - Gợi ý cho Việt Nam”.

gdvn-mac-van-tien.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Mạc Văn Tiến - Viện trưởng Viện Phát triển giáo dục nghề nghiệp và an sinh xã hội.

“Tự chủ - trách nhiệm giải trình - hội nhập quốc tế là ba trụ cột để bứt phá

Chia sẻ tại hội thảo, Bác sĩ Vũ Trí Tiến - Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai đề cập: “Đặc thù của khối ngành sức khỏe cũng như thách thức trong đào tạo mang tính tương đối khác biệt, bởi, ngành sức khỏe có tính đặc thù cao. Đào tạo nhân lực phải gắn với an toàn người bệnh và trách nhiệm xã hội.

Do đó, những đổi mới tự chủ vừa mở ra cơ hội, vừa đặt ra nhiều thách thức trong bối cảnh nguồn lực còn rất hạn chế, cơ chế tài chính chưa linh hoạt và việc mà giữ chân giảng viên - thầy thuốc giàu kinh nghiệm, chất lượng cao và sự gắn kết với bệnh viện, doanh nghiệp còn chưa đồng bộ”.

Vị Phó Hiệu trưởng cũng nêu lên thực tiễn triển khai tự chủ tại Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai cũng như Bệnh viện Bạch Mai: “Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai cũng rất đặc thù, là trường thuộc bệnh viện, với bề dày lịch sử gần 60 năm và bệnh viện đã có bề dày 115 năm. Bệnh viện Bạch Mai là một trong những bệnh viện đa khoa hạng đặc biệt tuyến cuối của cả nước. Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai cũng đã tự chủ hơn 10 năm qua. Cho đến nay, các hoạt động tự chủ của trường, với đặc thù là trường nằm trong bệnh viện đã có khá nhiều thuận lợi, với mô hình rất tinh gọn.

Kết quả, thông qua hoạt động tự chủ, nhà trường được chủ động và độc lập, đã phản ánh qua số lượng học sinh nhà trường đào tạo tăng rất cao. Trước đây, mỗi năm, chỉ khoảng có khoảng một vài trăm người học, nhưng mấy năm gần đây đã tăng lên, như năm nay chỉ tiêu đào tạo khoảng 1.400 người học, trên tổng số lượng đăng ký tuyển sinh vào nhà trường khoảng 1.500 em.

Thông qua tự chủ, hằng năm, tổng thu đào tạo ở Bệnh viện Bạch Mai cũng tăng, ví dụ như năm 2022 là khoảng 76 tỷ đồng, đến năm 2024 đã tăng lên hơn 112 tỷ đồng. Trường không còn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.

Nhu cầu đào tạo nhân lực y tế hiện nay vô cùng lớn. Bệnh viện Bạch Mai cũng như Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai cũng đảm trách nhiệm vụ vô cùng lớn. Mỗi năm, có đến hàng chục nghìn các đối tượng người học được đào tạo tại bệnh viện, trong đó, đối tượng cao đẳng chỉ là một phần nhỏ, còn lại, bệnh viện đã tham gia vào công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hàng nghìn bệnh viện lớn nhỏ trên cả nước”.

gdvn-tri-tien.jpg
Bác sĩ Vũ Trí Tiến - Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai.

Để cơ chế tự chủ thực sự trở thành đột phá, Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai có một số những kiến nghị về mặt chính sách: “Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý đặc thù cho đào tạo nghề khối ngành sức khỏe, bảo đảm đồng bộ với Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Khám bệnh, chữa bệnh và Luật Giáo dục đại học.

Về mô hình trường thuộc bệnh viện, hiện nay chưa có trường đại học thuộc bệnh viện, nên vừa qua, khi nhà trường xây dựng đề án nâng cấp lên trường đại học, đã có rất nhiều ý kiến cho rằng hiện nay chưa có mô hình này, do đó, vô cùng khó khăn. Chúng tôi rất mong, với tinh thần của Tổng Bí thư là “không áp đặt những chuẩn mực cũ cho nền giáo dục hiện đại”, quan điểm này cũng cần phải thay đổi.

Với đặc thù của các trường đào tạo y, để có được cơ sở phục vụ đào tạo thực hành và tạo ra được sản phẩm đầu ra, sinh viên tốt nghiệp làm được việc, có lẽ, mô hình kết hợp giữa bệnh viện với trường là mô hình chúng ta cần cân nhắc và nhân rộng.

Thứ hai, cần tạo cơ chế tự chủ tài chính linh hoạt, cho phép khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội, hợp tác quốc tế và tái đầu tư cơ sở vật chất.

Thứ ba, phát triển về đội ngũ giảng viên - thầy thuốc, cần phải có cơ chế đãi ngộ đặc thù để thu hút và giữ chân nhân tài.

Thứ tư, khuyến khích hợp tác công - tư, thúc đẩy doanh nghiệp, bệnh viện, viện nghiên cứu tham gia đồng hành trong đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ.

Thứ năm, xây dựng cơ chế đánh giá và trách nhiệm giải trình minh bạch, gắn với kiểm định chất lượng, chuẩn mực quốc tế và nhu cầu thị trường lao động”.

gdvn-anh-toan.jpg
Toàn cảnh hội thảo ngày 11/9.

Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai cũng nhấn mạnh: “Tinh thần “không áp đặt những chuẩn mực cũ cho nền giáo dục hiện đại” như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh làm kim chỉ nam cho đổi mới. Nhà trường cũng đã xác định: “Tự chủ - trách nhiệm giải trình - hội nhập quốc tế” sẽ là ba trụ cột để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp khối ngành sức khỏe bứt phá”.

Bài và ảnh: Mộc Trà