Ngày 21/10, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị đánh giá 10 năm thực hiện phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi, 02 năm thực hiện Đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2018-2025 và triển khai thực hiện Nghị Định 105/NĐ-CP.
Ngày 09/02/2010 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 239/QĐ-TTg Phê duyệt đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi với mục tiêu: Bảo đảm hầu hết trẻ em năm tuổi ở mọi vùng miền được đến lớp để thực hiện chăm sóc, giáo dục 2 buổi/ngày, đủ một năm học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, tiếng Việt và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng để trẻ em vào lớp 1.
Đây là một chủ trương đúng đắn, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và nhà nước đối với thế hệ mầm non của đất nước nên được toàn xã hội quan tâm và huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc thực hiện.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Ngô Thị Minh thừa nhận việc thực hiện phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi gặp rất nhiều khó khăn bởi lẽ xuất phát điểm của giáo dục mầm non thấp; mạng lưới trường lớp manh mún, thiếu trường lớp, cơ sở vật chất thiếu thốn, tỷ lệ phòng học nhờ, học mượn rất cao (nhiều cơ sở giáo dục mầm non phải mượn nhờ nhà văn hóa của thôn xã, nhà dân, kho hợp tác xã; nhiều nơi phòng học là vách tre, mái lá);
Hơn nữa, giáo viên thiếu trầm trọng, chế độ chính sách cho giáo viên không đảm bảo; việc huy động trẻ đến trường rất khó khăn, đặc biệt là trẻ em ở vùng núi cao, vùng song nước, vùng đồng bàodân tộc thiểu số.
Công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi lại được triển khai trong bối cảnh kinh tế của đất nước và khu vực gặp nhiều khó khăn.
Thứ trưởng Ngô Thị Minh (ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo) |
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, trong hơn 10 năm qua nhờ sự vào cuộc tích cực của các cấp ủy đảng chính quyền, các tổ chức xã hội và toàn xã hội; sự nỗ lực của ngành giáo dục chúng ta đã thực hiện thành công các mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi.
“Những thành tựu đạt được trong công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi là rất có ý nghĩa, tạo nên diện mạo mới đối với giáo dục mầm non”, Thứ trưởng Minh khẳng định.
Cụ thể đó là mạng lưới trường lớp mầm non được củng cố, mở rộng và phân bố đến hầu hết các địa bàn dân cư xã, phường, thôn, bản đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đưa trẻ đến trường và nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non, mỗi phường xã có ít nhất 1 trường mầm non công lập.
Tổng số trường tăng khoảng trên 2.600 trường so với năm 2010; cơ sở vật chất, phòng học được tăng cường: cả nước hiện có 201.605 phòng học, (số phòng học được xây mới trong 10 năm là 105.639 phòng: giai đoạn 2010-2015 tăng 48.240 phòng; giai đoạn 2015-2020 tăng 57.399), trong đó, có 156.642 phòng kiên cố (chiếm tỷ lệ 77,7%, tăng 28,3%); phòng học tạm còn 3.284 phòng (tỷ lệ 1,6%, giảm 14.180 phòng); đồ dung đồ chơi tối thiểu được trang bị ở hầu hết các lớp 5 tuổi.
Đội ngũ giáo viên mầm non được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, chế độ chính sách được đảm bảo:
Toàn ngành hiện có 364.776 giáo viên (tăng 148.072 giáo viên). Tỷ lệ giáo viên/lớp đạt 1,82 giáo viên/lớp.
Giáo viên mầm non từ chỗ phần lớn chưa được hưởng chế độ của viên chức mà chỉ được chi trả theo hợp đồng lao động với mức lương thấp, thậm chí có nơi giáo viên mầm non chỉ được chi trả bằng thóc lúa, cuộc sống rất bấp bênh thì đến nay tất cả giáo viên mầm non đều được hưởng chế độ chính sách như viên chức nhà nước.
Tỷ lệ uy động trẻ đến trường tăng mạnh: Tổng số trẻ mầm non được đến trường là 5.306.501 trẻ em (tăng 1.535.018 trẻ so với năm học 2010-2011); trong đó có 1.637.266 trẻ mẫu giáo 5 tuổi (tăng 333.489 trẻ), tỷ lệ huy động trẻ em 5 tuổi đạt 99,6%.
Chương trình giáo dục mầm non được đổi mới, chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ được nâng cao rõ rệt. Trẻ được chuẩn bị sẵn sàng về thể chất, tâm lý, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm kỹ năng xã hội để vào lớp 1, mạnh dạn, tự tin, ham hiểu biết, thích đi học. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non giảm dần qua các năm. Tỷ lệ thừa cân béo phì được khống chế.
Trẻ em mẫu giáo có hoàn cảnh khó khăn (vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, trẻ không có nguồn nuôi dưỡng, trẻ thuộc hộ nghèo, cận nghèo) được Nhà nước hỗ trợ tiền ăn trưa;
Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ khuyết tật được quan tâm phát hiện sớm, can thiệp sớm, học hòa nhập góp phần nâng cao tỷ lệ huy động trẻ em đến trường, chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được nâng cao nhờ Đề án phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi.
Cuối cùng, theo Thứ trưởng Ngô Thị Minh, thực hiện thành công phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi là một thành tựu đáng tự hào được bạn bè thế giới đánh giá cao. Hiện nay chúng ta tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục mầm non theo yêu cầu tại Kết luận 51 “Duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi, hướng đến phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi”.