Thời điểm này, hầu hết giáo viên dạy bậc trung học phổ thông ở nhiều tỉnh/thành trên cả nước đã hoàn tất bồi dưỡng modul 2 của Chương trình giáo dục mới (2018) và chuyển sang modul 3.
Chúng tôi nhận được nhiều phản ánh của giáo viên đồng nghiệp khắp 3 miền Bắc, Trung, Nam cho biết, nội dung bồi dưỡng modul 3 môn Ngữ văn dàn trải, cũ kĩ, nặng lí thuyết khiến người học phải rất vất vả mới hoàn thành kịp tiến độ.
Có một số tỉnh/thành ngoài việc yêu cầu giáo viên học online theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì còn phải học tập trung trực tiếp một số buổi do giáo viên cốt cán của Sở Giáo dục giảng dạy.
Việc yêu cầu giáo viên vừa học online vừa học tập trung khiến nhiều người cảm thấy rất mệt mỏi, tốn thời gian, công sức, chi phí đi lại nhưng hiệu quả chẳng thấy đâu.
Nhận thấy việc phản ánh của giáo viên là có cơ sở, người viết đã khảo sát toàn bộ nội dung modul 3 môn Ngữ văn nhằm góp thêm một tiếng nói cho ngành giáo dục.
Nhiều giáo viên cho rằng nội dung bồi dưỡng modul 3 môn Ngữ văn dàn trải, cũ kĩ, nặng lí thuyết. (Ảnh do tác giả cung cấp) |
Nhiều kiến thức lí thuyết cũ kĩ, thiếu thực tế
Theo đó, modul 3 gồm có các nội dung sau đây:
Thứ nhất, phần mở đầu: Tổng quan; Giới thiệu chung về kiểm tra đánh giá; Cấu trúc tài liệu; Kiểm tra đầu vào.
Thứ hai, các xu hướng hiện đại về kiểm tra đánh giá kết quả học tập, giáo dục nhằm phát triển phẩm chất năng lực học sinh: Một số vấn đề về kiểm tra đánh giá trong giáo dục; Quan điểm hiện đại về kiểm tra đánh giá; Đánh giá phẩm chất, năng lực học sinh;
Nguyên tắc kiểm tra đánh giá phẩm chất và năng lực học sinh; Quy trình kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh (mỗi tiểu mục đều yêu cầu giáo viên xem video để hoàn thành phần bài tập tự luận); Câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
Thứ ba, hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập, giáo dục theo phương hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh: Đánh giá kết quả giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong dạy học môn Ngữ văn;
Video giới thiệu xây dựng công cụ kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và sự tiến bộ của học sinh; Đề kiểm tra; Video kiểm tra; Câu hỏi; Bài tập; Sản phẩm học tập; Hồ sơ học tập; Thang đánh giá; Xây dựng kế hoạch trong đánh giá dạy học bài học/chủ đề môn Ngữ văn theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh;
Phân tích yêu cầu cần đạt của bài học/chủ đề môn Ngữ văn theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; Xây dựng công cụ kiểm tra, đánh giá một chủ đề/bài học Ngữ văn theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh;
Câu hỏi tương tác; Phân tích, sử dụng kết quả đánh giá theo đường phát triển năng lực để ghi nhận sự tiến bộ của học sinh; Định hướng sử dụng kết quả đánh giá để đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn (mỗi tiểu mục đều yêu cầu giáo viên xem video để hoàn thành phần bài tập tự luận).
Thứ tư, xác định đường phát triển năng lực học sinh trong dạy học môn Ngữ văn: Đánh giá cuối khóa học; Tiêu chí đánh giá; Bài tập trắc nghiệm; Bài tập tự luận (sản phẩm phải nộp).
Chỉ nhìn vào các mục, tiểu mục của modul 3, giáo viên đã thấy hoa mắt. Hơn nữa, có những câu hỏi chỉ thuần kiểm tra lí thuyết kiểu học thuộc lòng như: “Trình bày các khái niệm: đo lường, đánh giá, kiểm tra”; “Sự khác biệt giữa mục đích chủ yếu của đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng là gì?”.
“Nêu tên các nguyên tắc kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh”; “Tại sao có thể nói quy trình 7 bước kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh tạo nên vòng tròn khép kín?”; “Hãy cho biết câu hỏi tự luận có những dạng nào? Nêu đặc điểm của mỗi dạng đó”.
Có những câu hỏi thừa thãi, vô duyên như: “Thế nào là đánh giá thường xuyên?”; “Thế nào là đánh giá định kì”; “Hãy đưa ra một ví dụ về phương pháp quan sát trong dạy học Ngữ văn”; “Hãy lấy một ví dụ về hỏi - đáp gợi mở và hỏi - đáp tổng kết trong dạy học một bài học Ngữ văn cụ thể”.
Có những câu hỏi cũ rích như: “Trong dạy học Ngữ văn, có những dạng sản phẩm học tập nào?”; “Hãy lấy ví dụ về 01 bài tập tình huống trong dạy học môn Ngữ văn”; “Hãy nêu các yêu cầu về kĩ năng đọc hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn ở bậc trung học phổ thông”.
Có những câu hỏi chỉ để hỏi… cho có như: “Hãy chia sẻ kinh nghiệm của mình về việc xây dựng đề kiểm tra trong dạy học môn Ngữ văn”; “Hãy trình bày cách sử dụng sản phẩm học tập trong kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn”; “Hồ sơ học tập nên quản lí thế nào?”.
Cũng có những câu hỏi hàn lâm như: “Hãy xây dựng hệ thống câu hỏi đánh giá theo thang Bloom cho một bài học Ngữ văn tự chọn”; “Trong dạy học Ngữ văn, bảng kiểm có thể đánh giá những kĩ năng nào? Hãy nêu một ví dụ”; “Hãy chia sẻ ngắn gọn hiểu biết của mình về đường phát triển năng lực học sinh”.
Điều đáng quan tâm nhất của việc học các modul nói chung và modul 3 nói riêng là công đoạn nộp bài tập tự luận (kế hoạch dạy học – thường gọi là giáo án). Bài tập này phải được giáo viên cốt cán chấm đạt thì người học mới hoàn thành modul đó.
Nhiều đồng nghiệp chia sẻ với người viết cho biết, họ bị giáo viên cốt cán trả lại giáo án nhiều lần vì hình thức và nội dung soạn không như… khuôn mẫu.
Giáo viên cốt cán được tập huấn soạn giáo án thế nào thì cũng yêu cầu người học modul phải soạn đúng như vậy. Trong khi đó, người học chủ yếu soạn bài theo chương trình hiện hành chứ có biết hình hài sách giáo khoa mới ra sao đâu.
Nhiều giáo viên tìm cách đối phó cho xong chuyện
Theo tìm hiểu của chúng tôi, nhiều giáo viên vì những lí do khác nhau nên tìm mọi cách đối phó, tìm mọi cách hoàn tất các modul cho xong chuyện.
Đó là, giáo viên lớn tuổi, yếu công nghệ thông tin, lười nhác thì nhờ giáo viên trẻ tuổi làm thay, học thay (học online), điểm danh thay (học trực tiếp).
Kể cả giáo viên lên mạng nhờ người khác học thay, khi thỏa thuận xong thì chỉ việc chuyển khoản (nộp card điện thoại) và cung cấp tên tài khoản, mật khẩu là xong.
Giáo viên bận việc, muốn học đối phó thì đi xin đáp án trắc nghiệm, đáp án tự luận, giáo án của trường bạn, tỉnh bạn và cứ thế copy và dán vô là xong.
Và cứ sau khi modul mới được triển khai khoảng vài ba ngày thì trên mạng xuất hiện tràn lan đáp án, cả trắc nghiệm, tự luận, thậm chí có cả video hướng dẫn tận tình cách làm bài.
Cho nên, có giáo viên sau khi học xong modul thì cũng không nhớ mình đã học gì, nói gì đến việc lĩnh hội kiến thức để áp dụng vào giảng dạy chương trình mới.
Người học thiếu trung thực dĩ nhiên là rất đáng trách. Nhưng, như chúng tôi đã phân tích, nội dung bồi dưỡng modul 3 môn Ngữ văn (kể cả những môn học khác) còn nhiều bất cập, hàn lâm, thiếu thực tiễn dẫn đến giáo viên chán ngán.
Qua bài viết này, kính mong Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục các địa phương hãy rà soát lại nội dung bồi dưỡng các modul để hiệu chỉnh sao cho hợp lí, nhằm giúp giáo viên được bồi dưỡng chương trình mới một cách thiết thực nhất, hiệu quả nhất.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.