Xã Văn Quan (tỉnh Lạng Sơn) được thành lập trên cơ sở các đơn vị xã Hòa Bình, xã Tú Xuyên, thị trấn Văn Quan của huyện Văn Quan cũ.
Theo danh sách 74 huyện nghèo giai đoạn 2021 - 2025 được đề cập tại Quyết định 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ, huyện Văn Quan là một trong những huyện thuộc danh sách này.
Triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, xã Văn Quan đã thụ hưởng nguồn vốn, phát huy hiệu quả và tạo được nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là nâng tỷ lệ hộ dân thoát nghèo bền vững, từng bước giúp người dân tiếp cận với nền kinh tế số.
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Lành Văn Hiến - Trưởng phòng Phòng Kinh tế thuộc Ủy ban nhân dân xã Văn Quan (tỉnh Lạng Sơn) cho biết, nhân dân địa phương luôn có tinh thần đoàn kết, tích cực tham gia thực hiện các mô hình giảm nghèo, chủ động tiếp cận chính sách. Các tổ chức đoàn thể (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên,...) phối hợp chặt chẽ trong công tác tuyên truyền, vận động và hỗ trợ hộ nghèo chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa bàn.
“Xã có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên để phát triển nông - lâm nghiệp như trồng hồi, keo,... chăn nuôi gia súc, gia cầm. Một số sản phẩm đặc trưng của địa phương đã có đầu ra tương đối ổn định, tạo cơ hội mô hình sản xuất hàng hóa gắn với thị trường, tiêu biểu là sản phẩm Mật Ong”, ông Hiến cho biết.
Cùng với việc tập huấn thường xuyên, từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ phụ trách giảm nghèo, cán bộ các hội đoàn thể, địa phương đẩy mạnh hệ thống mạng internet, sóng di động được phủ rộng khắp, tạo điều kiện cho việc cập nhật dữ liệu hộ nghèo trên phần mềm, tuyên truyền chính sách và kết nối thị trường.
Tạo chuyển biến trong nhận thức của người dân về giảm nghèo bền vững
Đến thời điểm hiện tại, xã Văn Quan đã đạt được những kết quả tích cực trong triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025.
Cụ thể, xã đã triển khai các mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất thực hiện hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo; hộ mới thoát nghèo trên địa bàn xã, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, xây dựng sản phẩm OCOP với 03 sản phẩm đạt 3 sao.
Bên cạnh đó, xã đã hoàn thành các công trình hạ tầng thiết yếu như: Nâng cấp các tuyến đường giao thông nông thôn; Sửa chữa các công trình thủy lợi, đảm bảo tưới cho cây trồng; Xây mới các nhà văn hóa thôn phục vụ sinh hoạt cộng đồng của các hộ dân; Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 100%, tăng 10% so với năm 2021.
Trong triển khai chương trình giảm nghèo bền vững, ông Hiến cho rằng đã có những tác động đến sự chuyển biến về nhận thức của người dân về tự lực vươn lên thoát nghèo, với trên 80% hộ nghèo chủ động đăng ký tham gia mô hình sinh kế.
Chưa kể, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện; môi trường nông thôn xanh – sạch – đẹp; an ninh trật tự tiếp tục được giữ vững. Thêm nữa, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất được mở rộng, số hộ áp dụng quy trình canh tác tiến bộ ngày một tăng. Đặc biệt, tỷ lệ học sinh ra lớp đạt 100%, không xảy ra tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng.
Được biết, nhờ làm tốt công tác tổ chức các lớp đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn và giới thiệu việc làm cho lao động trong độ tuổi, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 32 triệu đồng năm 2021 lên 41 triệu đồng năm 2025. Ấn tượng trong năm 2025 là xã có 176 hộ thoát nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều. Ông Hiến cho rằng, đây là kết quả nổi bật nhất khi tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo giảm rõ rệt qua từng năm và vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao.
“Việc giảm nghèo được thể hiện ở số lượng hộ thoát nghèo tăng lên và sự cải thiện thu nhập, điều kiện sinh hoạt, mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân. Tỷ lệ giảm nghèo là chỉ tiêu quan trọng nhất trong mục tiêu giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025, được các cấp, các ngành và nhân dân đặc biệt quan tâm.
Số lượng hộ thoát nghèo tăng phản ánh trực tiếp hiệu quả tổng hợp của toàn bộ Chương trình, từ hỗ trợ sinh kế, nhà ở, y tế, giáo dục đến đào tạo nghề và giải quyết việc làm. Điều này tác động thiết thực đến đời sống người dân, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm tình trạng tái nghèo và nghèo phát sinh; tạo chuyển biến tích cực về nhận thức của người dân, từ trông chờ hỗ trợ sang chủ động tham gia sản xuất, phát triển kinh tế hộ gia đình”, ông Hiến chia sẻ.
Từ sản xuất tự phát sang có định hướng thị trường, từng bước tham gia nền kinh tế số
Bàn về công tác hỗ trợ người dân nghèo tiếp cận thiết bị, dịch vụ Internet và điện thoại thông minh, ông Hiến cho biết, xã đã quan tâm triển khai các hoạt động hỗ trợ người dân nghèo, cận nghèo tiếp cận cơ sở hạ tầng số, bao gồm thiết bị thông minh và dịch vụ Internet, nhằm tạo điều kiện để người dân “tiếp cận thông tin thiết yếu về giảm nghèo, thị trường, kỹ thuật sản xuất” và thuận lợi hơn trong phát triển sản xuất, nâng cao đời sống.
Đến nay ghi nhận 100% thôn, bản trên địa bàn có điểm phát sóng Internet; chất lượng kết nối được cải thiện, giúp người dân dễ dàng cập nhật thông tin thị trường, giá nông sản, thời tiết, kỹ thuật trồng trọt - chăn nuôi. Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo có sử dụng Internet tăng đáng kể.
Xã phối hợp với các nhà mạng và doanh nghiệp viễn thông triển khai chương trình hỗ trợ điện thoại thông minh giá ưu đãi, cấp SIM miễn phí, tặng gói data cho hộ nghèo, góp phần thúc đẩy khả năng tiếp cận thông tin của người dân.
Một số hộ nghèo đã chủ động sử dụng điện thoại thông minh để tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản, học kỹ thuật sản xuất qua video, tham gia các nhóm chia sẻ kinh nghiệm sản xuất.
Cũng theo ông Hiến, xã đã tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng các ứng dụng thiết yếu như: Cổng dịch vụ công, ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt, ứng dụng nông nghiệp số, sàn thương mại điện tử…
Một bộ phận người dân đã bước đầu biết tra cứu thông tin, xem hướng dẫn kỹ thuật, tham gia các kênh Zalo thôn, nhóm hội nghề nghiệp.
“Thời gian qua, nhờ đẩy mạnh hỗ trợ người dân nghèo tiếp cận thiết bị, dịch vụ Internet và điện thoại thông minh đã giúp hộ nghèo tiếp cận nhanh hơn các chính sách giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất. Người dân có thể cập nhật giá cả thị trường, lựa chọn vật tư đầu vào hợp lý, hạn chế bị ép giá, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế. Một số mô hình sản xuất nhỏ lẻ đã bắt đầu tìm được đầu ra qua mạng xã hội, nâng cao thu nhập.
Đặc biệt, tăng khả năng tiếp cận tri thức mới, thay đổi tư duy sản xuất từ tự phát sang có định hướng theo nhu cầu thị trường. Góp phần đưa người dân từng bước tham gia nền kinh tế số, phù hợp mục tiêu chuyển đổi số quốc gia”, ông Hiến chia sẻ.
Tuy nhiên, quá trình triển khai công tác này vẫn còn đó những khó khăn và hạn chế. Cụ thể như một số hộ nghèo chưa có điều kiện mua thiết bị dù đã có hỗ trợ giá, nhất là các hộ đông người, thu nhập bấp bênh.
Nhiều người, đặc biệt là người cao tuổi hoặc lao động nông nghiệp, còn lúng túng trong việc sử dụng điện thoại thông minh và các ứng dụng trực tuyến.
Hạ tầng Internet ở một số khu vực vẫn chưa ổn định, đặc biệt là các điểm vùng cao, gây khó khăn khi truy cập dữ liệu lớn, xem video hướng dẫn kỹ thuật.
Ý thức chủ động tiếp cận thông tin chưa cao, một số hộ vẫn còn tâm lý trông chờ, chưa tích cực sử dụng công nghệ vào sản xuất. Ngoài ra, việc kết nối tiêu thụ sản phẩm qua nền tảng số còn hạn chế do sản lượng nhỏ, chất lượng chưa đồng đều, thiếu kỹ năng bán hàng trực tuyến.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sản xuất và tiếp cận thông tin thị trường
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững trên địa bàn xã, Ủy ban nhân dân xã Văn Quan đề xuất, về cơ chế chính sách, Trưởng phòng Phòng Kinh tế xã Văn Quan cho rằng, cần đa dạng các giải pháp cụ thể.
Cụ thể, cần có sự điều chỉnh, bổ sung chính sách hỗ trợ sinh kế theo hướng linh hoạt, phù hợp đặc thù vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; ưu tiên các mô hình nông - lâm nghiệp, chăn nuôi gia súc và phát triển kinh tế rừng.
Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong tiếp cận các nguồn hỗ trợ (vốn vay ưu đãi, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ nhà ở…), tạo điều kiện cho hộ nghèo, cận nghèo dễ dàng tham gia.
Xem xét tăng mức hỗ trợ định mức đối với các dự án phát triển sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm; mở rộng đối tượng hỗ trợ cho nhóm hộ mới thoát nghèo nhằm phòng tránh tái nghèo.
Về nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, ông Hiến cho rằng cần tăng cường phân bổ nguồn vốn cho các tiểu dự án thuộc Chương trình giảm nghèo bền vững, đặc biệt là vốn hỗ trợ phát triển sản xuất, nâng cao năng lực và chuyển giao kỹ thuật.
Có chính sách bổ sung kinh phí cho các xã miền núi khó khăn để triển khai các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, tập huấn kỹ thuật và nhân rộng mô hình giảm nghèo hiệu quả.
Hỗ trợ nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông thôn bản, mương thủy lợi nhỏ, nhà văn hóa, công trình nước sinh hoạt…), nhằm tạo điều kiện phát triển sinh kế và nâng cao đời sống người dân.
Về đào tạo, bồi dưỡng và chuyển giao khoa học kỹ thuật, Ủy ban nhân dân xã đề nghị các sở, ngành tăng cường lớp tập huấn kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, trồng rừng, chế biến nông sản, OCOP, phù hợp nhu cầu thực tế của hộ nghèo.
Tổ chức hoạt động khuyến nông, khuyến lâm định kỳ tại cơ sở, gắn với mô hình thực nghiệm để người dân dễ tiếp cận và áp dụng. Tăng cường đội ngũ cán bộ kỹ thuật hỗ trợ xã, đặc biệt trong giai đoạn triển khai mô hình mới.
Về thị trường và tiêu thụ sản phẩm, ông Hiến chia sẻ rằng, cần hỗ trợ xã kết nối với doanh nghiệp, hợp tác xã trong bao tiêu sản phẩm nông - lâm nghiệp; xây dựng chuỗi liên kết bền vững cho các sản phẩm chủ lực. Tư vấn và hỗ trợ xây dựng, quảng bá sản phẩm OCOP, tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ và tạo việc làm tại chỗ cho người dân.
Về chuyển đổi số trong giảm nghèo, Ủy ban nhân dân xã đề nghị cấp trên hỗ trợ hạ tầng số, đường truyền Internet tại một số thôn còn yếu; triển khai các hoạt động hướng dẫn người dân ứng dụng công nghệ vào sản xuất và tiếp cận thông tin thị trường; hỗ trợ xã ứng dụng phần mềm quản lý hộ nghèo, cập nhật thông tin kịp thời, chính xác.