Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 51/NQ-CP Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 91-KL/TW ngày 12 tháng 8 năm 2024 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế".
Trong đó, có đặt ra yêu cầu Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, cơ quan liên quan xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định về đào tạo các ngành, nghề chuyên sâu đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định liên quan đến chính sách đối với đào tạo các ngành, nghề lĩnh vực đặc thù nghệ thuật và thể dục thể thao.
Lãnh đạo một số cơ sở giáo dục cao đẳng, trung cấp nghệ thuật đã có chia sẻ về thuận lợi cũng như khó khăn trong việc đào tạo ngành nghệ thuật hiện nay.
Công tác đào tạo nghệ thuật vẫn còn nhiều vướng mắc
Bàn về mức độ cần thiết của việc có một Nghị định về đào tạo ngành, nghề đặc thù cho lĩnh vực nghệ thuật, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Nghệ sĩ Ưu tú Ngô Lê Thắng - Hiệu trưởng Trường Trung cấp Nghệ thuật xiếc và Tạp kỹ Việt Nam cho biết:
"Các ngành nghệ thuật, thể dục thể thao là những ngành đặc thù, chuyên sâu, khó tuyển sinh nhưng xã hội có nhu cầu. Đào tạo các ngành này không hướng đến phổ cập, đào tạo số đông mà chọn số ít nhưng phải có năng khiếu để đào tạo tài năng (xuất chúng, mũi nhọn…)
Theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp, thời gian đào tạo trình độ trung cấp theo niên chế đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên là từ 1 đến 2 năm học tùy theo chuyên ngành hoặc nghề đào tạo, nhưng với đào tạo nghệ thuật, thể dục thể thao điều này là không thể.
Người học cần phải có thời gian để “ngấm”, tức là từ việc hiểu cho đến thực hiện được kỹ thuật, từ kỹ thuật trở thành kỹ năng và từ kỹ năng trở thành kỹ xảo là một quá trình dài, liên tục.
Thời gian đào tạo dài nhưng tuổi nghề lại ngắn nên càng phải đào tạo từ sớm, đúng “tuổi vàng”. Bên cạnh đó, thông lệ quốc tế đối với những ngành nghề này cũng thường đào tạo dài hạn. Ví dụ như đào tạo trung cấp chuyên ngành Piano của Nga kéo dài 12 năm hay việc dạy xiếc tại Trung Quốc kéo dài 6 năm và bắt đầu tuyển từ học sinh tiểu học".
Đề cập đề khó khăn trong đào tạo, thầy Thắng nói, theo Luật Giáo dục 2019, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp không được phép tuyển sinh vào lớp 10 giáo dục thường xuyên hệ trung học phổ thông.
Do đó, học sinh của Trường Trung cấp Nghệ thuật xiếc và Tạp kỹ Việt Nam buộc phải đi học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên bên ngoài. 1 học sinh phải chịu sự quản lý của 2 cơ sở giáo dục.
Điều này sẽ phát sinh một số vấn đề như phương tiện đi lại, học phí và nhất là ảnh hưởng đến chương trình học, đặc biệt khi có các sự kiện biểu diễn chính trị hoặc thi đấu đột xuất. Những hoạt động này có thể kéo dài nhiều ngày, khiến học sinh bỏ lỡ bài học văn hóa.

Chia sẻ về việc đào tạo các ngành nghề đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật, thể dục thể thao, thầy Phan Thái Hùng - Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Đà Nẵng cho biết, công tác đào tạo nghệ thuật hiện nay có nhiều “điểm nghẽn” cần tháo gỡ, cụ thể:
Do tính chuyên môn sâu, tính cá nhân hóa trong đào tạo nghệ thuật nên hình thức tổ chức dạy học chủ yếu thực hiện theo nhóm nhỏ hoặc dạy học cá nhân 1 thầy - 1 trò. Hình thức đào tạo này kéo theo quy mô đào tạo không thể mở rộng vì thu không đủ chi, không có kinh phí tái đầu tư nâng cấp thiết bị, phát triển đội ngũ, cải cách tiền lương.
Trong điều kiện tự chủ tài chính hiện nay, bắt buộc các trường nghệ thuật phải nghiên cứu tăng quy mô, điều chỉnh các hình thức dạy học để tăng thu, giảm chi, như vậy mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo sẽ gặp nhiều thách thức.
Cũng vì tính đặc thù trong đào tạo nghệ thuật (người học đòi hỏi phải có năng khiếu, tố chất, thanh sắc, hình thể...) nên nhiều ngành nghề chỉ có ít người học. Trong các chương trình đào tạo, có những môn học phải tổ chức các quy trình đào tạo rất đặc biệt, từ khâu dạy học đến thi cử, báo cáo kết quả học tập phải được tổ chức như 1 chương trình biểu diễn (với âm thanh, ánh sáng, trang phục, đạo cụ) hoặc 1 chương trình trình diễn kỹ năng nghề nghiệp (đòi hỏi nhiều kinh phí tổ chức, nhiều lực lượng tham gia hỗ trợ).
Hiện tại, học phí chỉ được thu theo mức trần và lộ trình quy định của nhà nước (Nghị định số 81/2021/NĐ-CP; Nghị định 97/2023/NĐ-CP). Với mức học phí này, đào tạo nghệ thuật là rất khó khăn.
Điều trên cũng gây ra khó khăn cho các trường nghệ thuật khi xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật và xác định giá dịch vụ sự nghiệp công. Nếu không tăng học phí thì càng đào tạo càng lỗ. Ngược lại nếu tăng học phí cao để duy trì, người học sẽ không đủ điều kiện theo học, những ngành nghề này sẽ dần mất đi, khó khôi phục, ảnh hưởng đến nhiệm vụ bảo tồn, phát triển văn hóa nghệ thuật hoặc không có nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật cung cấp cho xã hội.
Bên cạnh đó, những ngành nghề không có người học sẽ tạo ra áp lực cho người lãnh đạo phải giải quyết việc làm cho nhà giáo không có giờ dạy, phải giải quyết sự lãng phí về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đã đầu tư.
Điểm trở ngại khác là do các ngành nghệ thuật thường khó tìm việc ổn định trong các cơ quan, đơn vị nhà nước (các đơn vị này rất ít) mà phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu văn hóa nghệ thuật của thị trường, dịch vụ, các trung tâm nghệ thuật tư nhân.

Theo đánh giá của Thạc sĩ Lương Xuân Thành - Hiệu trưởng Trưởng Trung cấp Múa Thành phố Hồ Chí Minh chất lượng đào tạo các ngành nghệ thuật và thể dục thể thao bước đầu đạt được những thành tựu to lớn, tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục theo Nghị quyết 29-NQ/TW, vẫn còn tồn tại những hạn chế. Trong đó, phải kể đến một số vấn đề, cụ thể:
Thiếu hụt nguồn nhân lực đầu vào: Diễn viên múa đòi hỏi quá trình rèn luyện khắt khe, nhưng thu nhập và cơ hội nghề nghiệp chưa thực sự hấp dẫn khiến nhiều bạn trẻ không mặn mà với nghề.
Những điều kiện đặc thù trong đào tạo: Diễn viên múa yêu cầu thể hình tốt, sự dẻo dai, linh hoạt nên không phải ai cũng đáp ứng được, nhất là khi bắt đầu ở độ tuổi nhỏ.
Tuổi nghề ngắn và chế độ chưa phù hợp: Diễn viên múa thường có thời gian đào tạo dài, bắt buộc từ trình độ trung cấp đến đại học có thể kéo dài 6 năm đến 9 năm; nhưng tuổi nghề ngắn do đặc thù hoạt động trong cường độ âm thanh, ánh sáng lớn.
Tuy nhiên, các chế độ ưu đãi đối với ngành nghề đặc thù như diễn viên múa hiện nay chưa phù hợp với sự thay đổi của xã hội. Sau khi ra trường những diễn viên múa (trung cấp) tham gia tại các đoàn, nhà hát công lập có hệ số lương thấp, không đủ trang trải cuộc sống, khó tập trung thăng hoa trong nghệ thuật.
Có cơ chế để sử dụng hiệu quả đội ngũ nhà giáo là Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú
Theo thầy Phan Thái Hùng, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 (theo Quyết định 175/QĐ-TTg ngày 8/9/2016). Để thực hiện chiến lược này, các trường văn hóa nghệ thuật phải làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Mặc dù vậy, thực tế hoạt động đào tạo hiện nay chưa bước kịp với xu thế phát triển xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là thiếu cơ sở hạ tầng công nghệ; đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo thiếu kỹ năng kiến thức và kỹ năng số, còn mang tư duy truyền thống, ngại đổi mới, phương pháp dạy học lạc hậu.
Chương trình, giáo trình đào tạo vẫn mang nặng tính hàn lâm, chậm tiếp cận và cập nhật những thành tựu, xu hướng của nghệ thuật đương đại, của thời đại công nghệ số khiến nhiều ngành nghề, lĩnh vực nghệ thuật khó đáp ứng nhu cầu người học và yêu cầu xã hội, qua đó, ngày càng khó tuyển sinh, dần mai một.
Nguồn lực tài chính hạn chế, không đủ ngân sách để đầu tư vào công nghệ và đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; thiếu sự phối hợp và hợp tác với các doanh nghiệp trong, ngoài nước;
Một số quy định trong giáo dục nghề nghiệp chưa phù hợp với đào tạo nghệ thuật (chẳng hạn như khung thời gian đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng quá ngắn từ 1,5 năm đến không quá 3 năm do đó khó đáp ứng yêu cầu về đào tạo nghệ thuật chuyên sâu, người học tốt nghiệp ra trường hạn chế về kiến thức, kỹ năng, khó có thể bước ngay vào thị trường lao động nếu không tiếp tục học lên các bậc học cao hơn).
Nhận thức, quan điểm về vai trò, vị trí của đào tạo văn hóa nghệ thuật cũng còn những rào cản, thiếu linh hoạt, coi đào tạo, bồi dưỡng tài năng nghệ thuật thường hòa lẫn với mọi ngành nghề đào tạo khác dẫn tới sự "cào bằng" trong đánh giá, tham mưu chính sách, cơ chế - đặc biệt là cấp địa phương
Ví dụ, nhiều tỉnh thành thời gian qua lấy chỉ tiêu quy mô đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật để so sánh với các trường nghề lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, từ đó đánh giá các trường văn hóa nghệ thuật hoạt động không hiệu quả.
Qua đó tham mưu sắp xếp, sáp nhập cơ học các trường văn hóa nghệ thuật vào các trường nghề dẫn đến nguy cơ triệt tiêu các ngành nghề đào tạo văn hóa nghệ thuật do thiếu cơ sở khoa học vững chắc, do chưa đề ra được lộ trình, phương án phát triển hiệu quả sau sáp nhập, do phương pháp đào tạo nghệ thuật đặc thù không thể áp dụng như phương pháp đào tạo đại trà.
"Tôi cho rằng, chúng ta cần đánh giá lại, đặt công tác đào tạo văn hóa nghệ thuật vào đúng vị trí, vai trò và chức năng. Nhiều trường có bề dày thành lập trên 50 năm, nếu để mất đi sẽ rất khó thành lập lại, có thể sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp bảo tồn và phát triển văn hóa.
Bên cạnh đó, mỗi trường cần tự lực, tự chủ, đề ra các giải pháp khả thi nhằm khắc phục những tồn tại như đã nêu trên, để xác lập kế hoạch chiến lược phát triển phù hợp với năng lực, nguồn lực của đơn vị" - thầy Hùng nhấn mạnh.

Theo chia sẻ của Thạc sĩ, Nghệ sĩ Ưu tú Lương Xuân Thành, Trường Trung cấp Múa Thành phố Hồ Chí Minh có đội ngũ nhà giáo có trình độ cao, yêu nghề, giàu kinh nghiệm, nhiều nhà giáo được đào tạo ở các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới trong lĩnh vực nghệ thuật như Nga, Trung Quốc, Pháp…; nhiều nhà giáo được Nhà nước phong tặng các danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú, Nhà giáo Ưu tú…
Tuy nhiên, việc duy trì và phát triển đội ngũ nhân lực có chất lượng cao còn gặp nhiều khó khăn. Trong điều kiện, ngành múa là chuyên ngành hẹp, tính thực hành cao; ở Việt Nam chưa có các cơ sở đào tạo chính quy, chuyên nghiệp nghiên cứu chuyên sâu về nghệ thuật múa ở trình độ sau đại học; chế độ chính sách bồi dưỡng, nâng cao trình độ còn nhiều hạn chế.
Đặc biệt, để đào tạo ra một giảng viên giảng dạy nghệ thuật múa đạt trình độ cao đòi hỏi thời gian, công sức và niềm đam mê với nghề lớn. Vì vậy rất cần thiết cơ chế chính sách thu hút nhân lực có chất lượng cao riêng đối với các ngành nghề đặc thù như múa, xiếc….
Xem xét quy đổi, chế độ ưu đãi phù hợp mang tính đặc thù, có quy định riêng tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng hiệu quả đội ngũ nhà giáo là Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú tham gia giảng dạy đảm bảo tương xứng với các ngành đào tạo khác vì đặc thù về tính thực hành của ngành múa, xiếc…
Thầy Thành chia sẻ thêm, so với khu vực và thế giới, việc giảng dạy và học tập trong lĩnh vực nghệ thuật, thể dục thể thao được Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm. Các chương trình đào tạo ngày một cải tiến, cơ sở vật chất được đầu tư xây dựng.
Mặc dù vậy, từ những điều kiện chủ quan và khách quan khác nhau, sự đầu tư cho công tác đào tạo các ngành, nghề này hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới. Trong thời gian tới, rất cần sự quan tâm, đầu tư đúng mức cho công tác đào tạo các ngành, nghề đặc thù, cơ chế phù hợp để tạo động lực phát triển mới cho ngành nói chung.
Cần linh hoạt trong thời gian đào tạo ngành đặc thù
Từ góc nhìn của thầy Phan Thái Hùng, việc tự chủ tài chính là vấn đề lớn nhất của các cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật địa phương. Cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật nếu tự chủ chi thường xuyên vẫn phải thực hiện chính sách miễn giảm học phí. Tuy nhiên, phần kinh phí để bù lại không còn do ngân sách cấp trực tiếp, mà cơ sở phải tự chủ động cân đối, tìm nguồn, hoặc phối hợp với các cơ quan khác.
Để giúp các cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật ổn định, nhà nước xem xét, cho tự chủ theo cơ chế và lộ trình riêng, thực hiện tự chủ từng phần, khác với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp khác;
Xem nghệ thuật là ngành đặc thù để có hỗ trợ ngân sách riêng theo cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ; Sớm xây dựng, hoàn thiện các bộ định mức kinh tế kỹ thuật khối ngành văn hóa nghệ thuật để giúp các trường có cơ sở xác định đúng, đủ giá dịch vụ sự nghiệp công đáp ứng yêu cầu và lộ trình tự chủ được giao.
Dưới góc nhìn của Thạc sĩ, Nghệ sĩ Ưu tú Lương Xuân Thành, để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo Nghị quyết 29-NQ/TW, tháo gỡ những khó khăn trong công tác đào tạo các ngành đặc thù hiện nay, cần thiết có cơ chế đào tạo linh hoạt và phù hợp đặc thù ngành.
Trong đó, cho phép xây dựng chương trình đào tạo riêng biệt, tích hợp giữa văn hóa phổ thông và chuyên môn nghệ thuật/thể thao, tránh quá tải hoặc xung đột giữa 2 phần. Cho phép thời gian đào tạo kéo dài hơn (đặc biệt với nghệ thuật biểu diễn hoặc thể thao thành tích cao), tương tự như các mô hình ở nước ngoài.
Đẩy mạnh các chính sách đầu tư, tài chính và chế độ ưu đãi, thu hút, có ưu tiên đầu tư xây dựng và phát triển cho các cơ sở đào tạo nghệ thuật và thể thao trọng điểm. Cấp học bổng toàn phần cho học sinh/sinh viên có năng khiếu hoặc hoàn cảnh khó khăn đang theo học nghệ thuật – thể thao. Có chính sách thu hút đầu tư từ doanh nghiệp, quỹ phát triển tài năng, hợp tác công – tư trong đào tạo và tổ chức sự kiện nghệ thuật/thể thao.
Phát triển đội ngũ giảng viên, huấn luyện viên, có cơ chế lương, thưởng, phụ cấp đặc thù cho giảng viên, huấn luyện viên, nghệ sĩ, vận động viên kiêm nhiệm công tác đào tạo. Tăng cường gửi giảng viên đi đào tạo ở nước ngoài, mời chuyên gia quốc tế về giảng dạy, hỗ trợ nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực nghệ thuật – thể thao.
Có chính sách truyền thông và nâng cao nhận thức xã hội. Xây dựng chiến dịch truyền thông quốc gia nhằm nâng cao nhận thức xã hội về vai trò quan trọng của giáo dục nghệ thuật – thể thao. Đưa nội dung giáo dục nghệ thuật và thể chất thành phần bắt buộc, sớm và thực chất hơn trong giáo dục phổ thông.
Đặc biệt, đối với nghệ thuật truyền thống, để thế hệ trẻ có nhận thức sớm, hiểu biết về các loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc, các di sản tinh thần đúc kết qua nhiều thế hệ từ đó hun đúc tình yêu, sự đam mê nghệ thuật, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và tâm lý xã hội đối với các ngành đặc thù. Góp phần bảo tồn và phát huy giá trị các loại hình nghệ thuật truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa.

Học sinh Trường Trung cấp Múa Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NTCC.
Để tháo gỡ “điểm nghẽn” trong đào tạo ngành nghệ thuật, thể dục thể thao, Nghệ sĩ Ưu tú Ngô Lê Thắng đề xuất 3 giải pháp trọng tâm:
Thứ nhất, cho phép các trường chuyên biệt trong lĩnh vực nghệ thuật, thể dục thể thao đào tạo liên tục với thời gian linh hoạt từ 1 đến 9 năm.
Thứ hai, các trường đại học đào tạo nghệ thuật, thể dục thể thao được phép giảng dạy và cấp bằng trung cấp và cao đẳng, tạo hệ thống đào tạo xuyên suốt, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.
Thứ ba, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được dạy chương trình văn hóa phổ thông hệ giáo dục thường xuyên ngay tại trường, đảm bảo học sinh vừa học văn hóa vừa học chuyên môn một cách hiệu quả.