Một số điểm mới trong dự thảo Thông tư Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 25/2021/TT-BGDĐT về hướng dẫn triển khai đào tạo trình độ tiến sĩ, trình độ thạc sĩ cho giảng viên các cơ sở giáo dục đại học theo Quyết định số 89/QĐ-TT (Đề án 89) là "Người đi học là công dân Việt Nam, không quá 40 tuổi trong năm Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt đủ điều kiện nhận kinh phí hỗ trợ đi học theo Đề án nếu đi học sau đại học lần đầu và không quá 45 tuổi trong năm Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt đủ điều kiện nhận kinh phí hỗ trợ đi học theo Đề án nếu đi học sau đại học lần thứ hai trở đi. Trong khi quy định hiện hành yêu cầu tuổi không quá 40 tính đến năm tham gia tuyển chọn.
Ngoài ra, dự thảo đề xuất thống nhất mức tối đa 12 tháng cho cả nghiên cứu sinh và học viên thạc sĩ, thay vì giới hạn 12 tháng đối với nghiên cứu sinh và 6 tháng đối với thạc sĩ như quy định hiện hành".
Theo đánh giá của cơ sở giáo dục cũng như người học, điểm mới này không chỉ là sự hỗ trợ với giảng viên mà còn là giải pháp để các cơ sở giáo dục đại học tiếp tục nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa và phát triển bền vững của hệ thống giáo dục.
Tháo gỡ điểm nghẽn trong nâng cao trình độ với giảng viên
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Đỗ Thế Cần, Phó Trưởng phòng, Phòng Tổ chức - Hành chính, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng chia sẻ, dự thảo đề xuất thống nhất mức tối đa 12 tháng cho cả nghiên cứu sinh và học viên thạc sĩ, thay vì giới hạn 12 tháng đối với nghiên cứu sinh và 6 tháng đối với thạc sĩ như quy định hiện hành là hoàn toàn hợp lý.
Thực tế, phần lớn học viên theo học thạc sĩ và nghiên cứu sinh đều đã đi làm, đặc thù công việc của hai nhóm này khá tương đồng. Do đó, việc áp dụng cùng một quy định về thời gian tạm dừng học cho cả hai đối tượng là cần thiết và mang lại thuận lợi đáng kể cho người học.
Hiện nay, quy định chỉ cho phép học viên cao học được tạm dừng tối đa 6 tháng đã gây nhiều khó khăn, đặc biệt trong các trường hợp người học phải điều trị bệnh dài ngày, phụ nữ nghỉ thai sản, thay đổi công việc, hoặc gặp biến cố gia đình. Khi thời gian tạm dừng học tập không đủ, nhiều học viên bị vướng tiến độ học tập nhưng không còn căn cứ để xin tạm dừng. Điều này dẫn tới việc nhà trường phải tiếp nhận nhiều đơn xin gia hạn, xin đặc cách và giải quyết khiếu nại, khiến khối lượng công tác quản lý gia tăng.
Vì vậy, việc mở rộng thống nhất thời gian tạm dừng tối đa 12 tháng với học viên thạc sĩ và nghiên cứu sinh giúp giảng viên chủ động hơn trong việc cân đối giữa công tác tại trường và nhiệm vụ học tập. Nhà trường cũng dễ dàng hơn trong việc sắp xếp kế hoạch nhân sự, phân công giảng dạy, bố trí giảng viên thay thế trong thời gian giảng viên đang đi học.
Ngoài ra, việc mở rộng độ tuổi theo dự thảo là bước điều chỉnh rất có ý nghĩa, giúp các cơ sở đào tạo tháo gỡ điểm nghẽn lâu nay trong công tác nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên. Nhờ đó, các giảng viên sẽ có thêm cơ hội tiếp tục học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, từ đó đóng góp hiệu quả hơn cho nhà trường và hệ thống giáo dục.
Tuy nhiên, theo thầy Cần, về lâu dài, đối với nhóm giảng viên ở độ tuổi 40 tuổi thì không cần thiết phải đưa ra một con số giới hạn tuổi, bởi việc mở rộng cơ hội để giảng viên được học nâng cao trong và ngoài nước là vô cùng cần thiết, chúng ta đang hướng đến giáo dục hình thành năng lực học tập suốt đời cho người học, bản thân giảng viên cũng cần được tạo điều kiện để học tập liên tục nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nghề nghiệp.
Đồng quan điểm, theo Thạc sĩ Hà Thị Thanh Nga - Giảng viên Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh, hiện đang học tiến sĩ theo Đề án 89 tại Trường Đại học Nông nghiệp và Khoa học Đời sống Hungary chia sẻ, phần lớn học viên cao học và nghiên cứu sinh đều đã lập gia đình, đặc biệt là nữ học viên nếu rơi vào thời gian thai sản hoặc với trường hợp bất khả kháng như ốm đau, bệnh tật thì quy định hiện nay đôi khi tạo ra những áp lực không cần thiết đối với người học.
Chỉ trong 6 tháng tạm dừng, nhiều giảng viên chưa thể thu xếp xong công việc chuyên môn hoặc đời sống cá nhân. Điều đó khiến họ rơi vào tình thế khó khăn, dẫn đến quá tải hoặc phải xin dừng hẳn chương trình, khi được điều chỉnh lên 12 tháng với cả học viên thạc sĩ và nghiên cứu sinh sẽ giúp giảm thiểu tình trạng này và tạo điều kiện để họ quay lại học tập với tâm thế tốt hơn, từ đó đảm bảo hiệu quả quá trình đào tạo.
Đồng thời, đề xuất mở rộng độ tuổi đi học theo dự thảo là hoàn toàn hợp lý, tạo thêm cơ hội cho giảng viên được học tập nâng cao trình độ, đáp ứng nhu cầu thực tế và phù hợp với xu hướng phát triển đội ngũ hiện nay.
Ngoài ra, khi trường đại học có đội ngũ giảng viên giỏi, đặc biệt là giảng viên có trình độ tiến sĩ sẽ là những người có chuyên môn sâu, cập nhật tri thức mới và có khả năng truyền đạt, hướng dẫn sinh viên theo hướng nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn. Đội ngũ này đảm bảo rằng chương trình đào tạo không chỉ mang tính lý thuyết mà còn có tính thực tiễn cao, giúp sinh viên tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại và các xu hướng phát triển toàn cầu.
Thủ tục đăng ký, xét chọn theo đề án 89 vẫn còn nặng về mặt hành chính
Theo Tiến sĩ Đỗ Thế Cần, Đề án 89 hiện nay vẫn còn một số mặt hạn chế như còn nặng về thủ tục hành chính như khâu đăng kí, tiếp cận người học khiến quá trình tham gia trở nên phức tạp. Đồng thời, người học còn e ngại bởi những ràng buộc về công việc và yêu cầu bồi hoàn khi không hoàn thành khóa học.
Ngoài ra, mức kinh phí hỗ trợ mới chỉ đáp ứng được nhu cầu cơ bản, chính sách đãi ngộ, lương thưởng cũng như cơ hội phát triển cho những người hoàn thành chương trình tiến sĩ và trở lại đơn vị công tác chưa thực sự được chú trọng, tạo thêm rào cản tới việc tốt nghiệp đúng hạn của nghiên cứu sinh.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của các trường đại học vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu về phòng thí nghiệm và không gian nghiên cứu chuyên biệt cho nghiên cứu sinh.
Vì vậy, để khắc phục được những hạn chế của Đề án 89 hiện nay, theo thầy Cần, ngoài việc tăng mức hỗ trợ kinh phí, cần giảm bớt các thủ tục hành chính và điều chỉnh yêu cầu bồi hoàn kinh phí theo hướng hợp lý hơn, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, các trường đại học cũng cần thiết lập và mở rộng mạng lưới hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu thế giới nhằm tạo thêm nhiều cơ hội đào tạo cho giảng viên.
Đồng thời, chế độ đãi ngộ sau đào tạo, kế hoạch sử dụng nhân lực một cách hiệu quả và các khoản đầu tư về cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu là những yếu tố then chốt giúp thu hút và giữ chân người học sau khi hoàn thành chương trình, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Dưới góc nhìn của người học, Thạc sĩ Hà Thị Thanh Nga cho biết: “Việc nộp hồ sơ và xét duyệt đối tượng tham gia Đề án 89 hiện vẫn còn khó tiếp cận thông tin, thủ tục hành chính còn khá rườm rà.
Về kinh phí, tôi đăng ký học tiến sĩ tại Hungary từ tháng 9 năm 2022 theo Đề án 89, mức hỗ trợ của tôi khi đi học tại Hungary là 520 USD/tháng, vào thời điểm đó còn tạm đủ để trang trải nếu chi tiêu tiết kiệm. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, việc lạm phát cũng khiến mức sinh hoạt phí trở nên eo hẹp, buộc tôi phải tiết kiệm hơn để duy trì cuộc sống tại Hungary. Nếu không có thêm nguồn tài chính khác, người học khó có thể duy trì sinh hoạt với mức 520 USD/tháng”.
Do đó, nữ nghiên cứu sinh kỳ vọng rằng, các thủ tục liên quan đến hỗ trợ tài chính của Đề án 89 sẽ sớm được cải thiện, giúp nghiên cứu sinh yên tâm học tập và phát triển năng lực nghiên cứu, từ đó đóng góp hiệu quả hơn cho nền giáo dục và khoa học nước nhà.
Ngoài ra, toàn bộ quy trình từ lúc nộp hồ sơ đến khi nhận được kinh phí cần có hướng dẫn thống nhất, minh bạch. Mỗi giai đoạn nên có đầu mối liên lạc cụ thể để người học dễ dàng theo dõi tiến độ và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh.
Còn theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Đậu Bá Thìn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Đức, hiện nhà trường có 667 viên chức, người lao động với 407 giảng viên, trong đó có 193 tiến sĩ và 29 phó giáo sư, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ chiếm 46,7%.
Hằng năm, nhà trường đều quy hoạch và cử 14-15 giảng viên đi đào tạo nghiên cứu sinh, đến nay nhà trường có 59 giảng viên đang học nghiên cứu sinh, trong đó có 05 giảng viên đang được đào tạo theo Đề án 89.
Tuy nhiên, thực tế đề án vẫn còn tồn tại một số thách thức như ngoài thủ tục hành chính thì mức hỗ trợ tài chính chưa đủ hấp dẫn, trong khi thu nhập của giảng viên trẻ còn hạn chế và họ phải trang trải nhiều khoản chi phí khác khiến việc tham gia đề án chưa thật sự thu hút.
Theo thầy Thìn, để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người học, đề án 89 cần giảm thủ tục hành chính cũng như có sự điều chỉnh về kinh phí hỗ trợ. Khi không còn e ngại về thủ tục hành chính hay kinh phí, giảng viên sẽ mạnh dạn hơn trong việc đi học nâng cao trình độ ở trong nước, đặc biệt là ở nước ngoài. Đồng thời, giảng viên được cử đi đào tạo ở nước ngoài sẽ giúp họ được tiếp cận môi trường giáo dục chuyên nghiệp, có cơ hội tham gia nghiên cứu và trao đổi học thuật, mở rộng mạng lưới hợp tác quốc tế.
Song song với đó, cần tăng cường các chính sách tạo động lực cho giảng viên sau khi hoàn thành chương trình đào tạo. Bên cạnh ràng buộc trách nhiệm quay về trường, cần gắn việc cử giảng viên đi đào tạo với chiến lược tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm và sử dụng nhân tài sau khi hoàn thành khóa học, đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao được phát huy tối đa.