Nguồn thu KHCN đạt trên 1%, ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM nói do thống kê chưa đầy đủ

25/06/2025 06:24
Nguyễn Huệ
Theo dõi trên Google News

GDVN - Theo Phó Hiệu trưởng nhà trường, số liệu về tỉ trọng thu khoa học và công nghệ của nhà trường vẫn còn thấp là do cách thống kê chưa đầy đủ.

Website Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh có đề cập đến tầm nhìn là trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp hàng đầu Việt Nam, ngang tầm với các trường đại học uy tín trong khu vực và thế giới.

Nhà trường cũng không ngừng nâng cao chất lượng dạy, học, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng nhằm mang đến cho người học những điều kiện tốt nhất để phát triển toàn diện các năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, theo thông tin trong “Báo cáo về việc công khai hoạt động của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2024” được ký ngày 27/6/2024, cho thấy tỷ lệ thôi học năm đầu có biến động; tỉ trọng thu khoa học công nghệ của nhà trường chỉ trên dưới 1%/năm.

491818702-1179349240656003-296904811418934163-n.jpg
Cổng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường

Tỷ lệ thôi học năm đầu có biến động tăng/giảm theo năm

Theo quy định tại Tiêu chí 5.2. Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học, tỷ lệ thôi học không cao hơn 10% và riêng đối với người học năm đầu không cao hơn 15%.

Trong báo cáo của nhà trường, tỷ lệ thôi học năm đầu của năm 2023 và năm 2022 tuy không cao nhưng tính từ năm 2022 (0,09%) đến năm 2023 (0,13%), tỷ lệ thôi học năm đầu có xu hướng tăng lên.

Về vấn đề này, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Quách Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, tỷ lệ thôi học năm đầu của năm 2023 tăng cao hơn so với năm 2022 chủ yếu là do sinh viên của nhà trường thôi học để đi du học nước ngoài; một số em nghỉ học vì cảm thấy bản thân chưa phù hợp với ngành nghề đã chọn.

“Năm 2022, số lượng sinh viên nghỉ học ít hơn năm 2023 là do trong năm 2022 ảnh hưởng của dịch bệnh nên số lượng các em đăng ký đi học nước ngoài cũng giảm. Sang năm 2023, tình hình dịch bệnh ổn định, các em đăng ký đi học nước ngoài nhiều hơn. Tỷ lệ thôi học năm đầu của nhà trường chủ yếu là do các em chuyển sang học ở nước ngoài”, thầy Hải chia sẻ.

Cũng theo thầy Hải, tỷ lệ thôi học năm đầu của năm 2024 đã có xu hướng giảm so với năm 2023. Kết quả tích cực này đến từ những nỗ lực của nhà trường trong việc nâng cao chất lượng tư vấn tuyển sinh ngay từ ban đầu.

Cụ thể, nhà trường xác định làm tốt hơn nữa công tác tư vấn tuyển sinh để thí sinh có hiểu biết rõ ràng hơn về ngành học mà bản thân lựa chọn, từ đó giảm tỷ lệ thôi học ngay từ năm đầu. Đồng thời, nhà trường tập trung cải thiện cơ sở vật chất nhằm nâng cao trải nghiệm học tập cho sinh viên.

Cũng theo thầy Hải, giải pháp của nhà trường là làm sao để các bạn sinh viên thấy rằng việc học ở trong nước cũng tốt như đi học nước ngoài, bằng cách tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, phát triển chương trình đào tạo có tính chất phù hợp quốc tế và nâng cao chất lượng dịch vụ. Khi môi trường học tập tốt hơn, chỗ ăn ở, khu tự học, điều kiện phục vụ được cải thiện, sinh viên sẽ không cần phải tìm kiếm cơ hội học ở nước ngoài với mức chi phí cao.

Tỉ trọng thu từ khoa học và công nghệ còn thấp, trường nói do cách thống kê chưa đầy đủ

Liên quan đến hoạt động khoa học và công nghệ, số liệu trong Báo cáo về việc công khai hoạt động của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2024 cho thấy, tỉ trọng thu khoa học và công nghệ của nhà trường năm 2022 là 1,55% và năm 2023 là 1,57%. Như vậy, từ năm 2022 đến năm 2203, tỉ trọng thu khoa học và công nghệ tăng khá khiêm tốn (chỉ 0,02%).

Trong khi đó, tiêu chí 6.1, Thông tư số 01 quy định: “Tỉ trọng thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ trên tổng thu của cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ (có tính trọng số theo lĩnh vực), tính trung bình trong 3 năm gần nhất không thấp hơn 5%”.

Lý giải vì sao tỉ trọng thu khoa học và công nghệ tăng từ năm 2022 đến năm 2023 chỉ tăng ít, Phó Hiệu trưởng nhà trường cho biết, thực tế trong giai đoạn từ năm 2022 đến năm 2023, số liệu về tỉ trọng thu khoa học và công nghệ của nhà trường vẫn còn thấp là do cách thống kê chưa đầy đủ. Thời điểm đó, nhà trường mới chỉ tính các khoản thu từ đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển giao vật lý. Trong khi theo quy định tại Thông tư số 01, nguồn thu từ khoa học và công nghệ bao gồm cả các khoản tài trợ của doanh nghiệp cho hoạt động khoa học, các hợp đồng chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ và cả các dự án nghiên cứu khoa học quốc tế. Đây đều là những phần mà nhà trường chưa thống kê vào báo cáo.

Từ năm 2024, nhà trường sẽ tiến hành thống kê đầy đủ tất cả các khoản thu từ hoạt động khoa học và công nghệ theo đúng quy định mới. Khi đó, cộng tất cả các khoản thu đó lại, chắc chắn tỉ trọng thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ trên tổng thu của nhà trường sẽ vượt con số 5%.

Lâu nay, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh được biết đến là một trong những cơ sở đào tạo quy tụ được nhiều tiến sĩ, phó giáo sư lĩnh vực công nghệ kỹ thuật. Đây là đội ngũ quan trọng, thường đảm nhiệm vai trò dẫn dắt trong nghiên cứu đề tài khoa học. Nhưng theo thông tin trong báo cáo về việc công khai hoạt động năm 2024, phóng viên chưa thấy có đề tài hợp tác doanh nghiệp trong, ngoài nước, đề tài hợp tác quốc tế nào.

Chia sẻ về nội dung này, thầy Hải cho hay, sau khi có Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, nhà trường đã thực hiện triển khai nghiêm túc theo tinh thần nghị quyết, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc tăng cường hợp tác với doanh nghiệp.

Tất cả các đề tài mà nhà trường thực hiện đều có sự tham gia đối ứng từ doanh nghiệp. Ví dụ như các đề tài của Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp cùng phối hợp thực hiện với nhà trường. Những đề tài cấp bộ hay đề tài khoa học và công nghệ cấp quốc gia cũng đều có sự tham gia của doanh nghiệp cùng làm với nhà trường.

Việc chưa xuất hiện các đề tài hợp tác doanh nghiệp trong thống kê là do hình thức hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp tài trợ cho nghiên cứu, ký hợp đồng chuyển giao công nghệ, chuyển giao tri thức… chứ không gắn dưới dạng đề tài nghiên cứu khoa học.

Thầy Hải khẳng định nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh kết nối với doanh nghiệp trong và ngoài nước, đồng thời phát huy hiệu quả hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và gia tăng giá trị chuyển giao cho xã hội.

Số công bố khoa học trong danh mục Web of Science hoặc Scopus/giảng viên đạt 0,47 bài/năm

Theo quy định, tiêu chí 6.2, Thông tư số 01 yêu cầu số lượng công bố khoa học và công nghệ tính bình quân trên một giảng viên toàn thời gian không thấp hơn 0,3 bài/năm; riêng đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ không phải trường đào tạo ngành đặc thù không thấp hơn 0,6 bài/năm trong đó số bài có trong danh mục Web of Science hoặc Scopus (có tính trọng số theo lĩnh vực) không thấp hơn 0,3 bài/năm.

Theo báo cáo, số công bố khoa học bình quân trên một giảng viên toàn thời gian nằm trong danh mục Web of Science hoặc Scopus của nhà trường khoảng 0,47 bài/năm.

Như vậy, chiếu theo quy định của tiêu chí 6.2, nhà trường đạt được quy định về số lượng công bố khoa học và công nghệ.

Theo chia sẻ của thầy Hải, thực tế con số 0,47 là một kết quả khá tích cực nếu nhìn vào bối cảnh chung hiện nay. Để có được kết quả này, nhà trường đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm khuyến khích và hỗ trợ đội ngũ nhà khoa học đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, công bố quốc tế.

Cụ thể, nhà trường đặc biệt chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị nghiên cứu và hệ thống phòng thí nghiệm. Thầy Hải chia sẻ, nếu xét về số lượng phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu khoa học, nhà trường có lẽ cũng phải thuộc top đầu ở Việt Nam, tạo nền tảng để giảng viên và nhà khoa học yên tâm theo đuổi các hướng nghiên cứu chuyên sâu, bài bản. Bên cạnh đó, nhà trường cũng thành lập các nhóm nghiên cứu mạnh, nghiên cứu trọng điểm và dành nguồn lực đầu tư riêng.

Chính sách khuyến khích của nhà trường cũng rất rõ ràng, minh bạch. Theo đó, trong quy chế chi tiêu nội bộ, nhà trường dành mức thưởng cao cho các giảng viên có thành tích nghiên cứu nổi bật. Ví dụ, giảng viên có một bài báo quốc tế thuộc nhóm Q1 được thưởng hơn 100 triệu đồng/bài; nếu giảng viên đăng ký độc quyền sáng chế ở châu Âu, số tiền thưởng còn cao hơn rất nhiều. Ngoài ra, nhà trường cũng dành phần thưởng riêng cho những giảng viên có kết quả chuyển giao công nghệ thành công.

Không chỉ dừng lại ở các khoản thưởng, nhà trường còn chú trọng hỗ trợ các thủ tục hành chính cho giảng viên khi thực hiện đề tài nghiên cứu. Thầy Hải cho rằng, nếu để các thầy cô vừa làm nghiên cứu, vừa lo thủ tục giấy tờ phức tạp thì chắc chắn các thầy cô sẽ nản. Do đó, nhà trường có đội ngũ chuyên trách hỗ trợ phần này để thầy cô yên tâm tập trung cho chuyên môn nghiên cứu.

“Nhà khoa học chưa chắc đã đặt vấn đề về lương bổng nhưng chắc chắn họ cần có một môi trường làm việc, chỗ để thực hiện nghiên cứu, và phương tiện nghiên cứu. Do đó, nhà trường chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc phù hợp với hướng nghiên cứu của nhà khoa học”, thầy Hải cho biết.

Tuy nhiên, Phó Hiệu trưởng nhà trường cho rằng, để duy trì và phát triển mạnh mẽ hơn nữa các hoạt động nghiên cứu, yếu tố tài chính là rất quan trọng. Cạnh tranh giữa các trường hiện nay không chỉ là về học thuật mà còn về năng lực tài chính, nguồn lực đầu tư. Nếu trường không tự chủ tài chính thì rất khó để đầu tư đủ mạnh cho nghiên cứu.

Thầy Hải nhận thấy may mắn của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh là đã tự chủ mức độ 1, nên cũng là lợi thế để nhà trường đẩy mạnh nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, nhà trường nằm ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng mang lại nhiều thuận lợi, từ môi trường hợp tác đến sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Song, nhà trường còn gặp khó khăn về vấn đề quỹ đất. Theo thầy Hải, việc mở rộng diện tích của nhà trường ở khu vực nội thành là rất khó nên tương tự như các cơ sở giáo dục đại học khác, nhà trường phải phát triển cơ sở vật chất, phục vụ nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu bằng cách thành lập phân hiệu.

Nguyễn Huệ