Quốc hội chính thức thông qua 2 luật và 2 nghị quyết quan trọng

18/01/2024 11:35
Huệ Phương
GDVN-Tại phiên họp bế mạc, Quốc hội thông qua Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) và 2 nghị quyết quan trọng.

Tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp bất thường lần thứ 5, sáng ngày 18/1, Quốc hội thông qua Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) và 2 nghị quyết quan trọng.

Thông qua Luật Đất đai (sửa đổi)

Với 432/477 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 87,63%) Quốc hội chính thức thông qua Luật Đất đai (sửa đổi).

Trước khi các đại biểu biểu quyết, trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Luật Đất đai là dự án luật lớn, có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của đất nước; có tác động sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; đồng thời, cũng là dự án Luật rất khó và phức tạp. Dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý gồm 16 chương và 260 điều.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Ảnh: quochoi.vn.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Ảnh: quochoi.vn.

Về quyền của tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng đất do Nhà nước cho thuê đất thu tiền hằng năm (Điều 34), có ý kiến đề nghị cho phép doanh nghiệp thế chấp quyền thuê đất trả tiền hằng năm.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, dự thảo Luật quy định theo hướng phân biệt giữa trường hợp thuê đất trả tiền thuê đất một lần thì có quyền sử dụng đất và trường hợp thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm thì có quyền thuê trong hợp đồng thuê, với trường hợp thuê đất trả tiền hằng năm, người sử dụng đất chỉ có quyền thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất.

Có ý kiến đề nghị đối với đơn vị sự nghiệp công lập đã trả tiền thuê đất cho cả vòng đời dự án thì nên cho thế chấp; có thể xem xét cho đơn vị sự nghiệp công lập được quyền góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất thuê, nhất là các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ.

Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trường hợp phải xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật dân sự thì phải xử lý đồng bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; vì vậy, việc cho phép thế chấp, góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất thuê dẫn đến rủi ro với đất do đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng vốn có nguồn gốc là đất do Nhà nước giao.

Đối với việc góp vốn, thế chấp bằng tài sản không gắn liền với đất không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đất đai, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ ghi nhận ý kiến ĐBQH để tiếp tục nghiên cứu, xem xét hoàn chỉnh pháp luật có liên quan.

Việc tiếp cận các quỹ đất của đơn vị sự nghiệp công lập thuận lợi hơn so với các tổ chức kinh tế; vì vậy, nếu đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất trả tiền hằng năm cũng được trao quyền đầy đủ như tổ chức kinh tế sử dụng đất thuê trả tiền hằng năm thì sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa đơn vị sự nghiệp công lập và các doanh nghiệp.

Về bảng giá đất (Điều 159), có ý kiến đề nghị quy định bảng giá đất 5 năm 1 lần như luật hiện hành và hằng năm biến động thì điều chỉnh hệ số K, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế nêu rõ, đây là nội dung đã được các cơ quan nghiên cứu kỹ lưỡng, trình Quốc hội thảo luận nhiều lần trong quá trình giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật.

Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, bảng giá đất được quy định 5 năm một lần và phải điều chỉnh, bổ sung đối với trường hợp có biến động về giá đất thị trường; tuy nhiên, trên thực tế, rất ít trường hợp thực hiện điều chỉnh bảng giá đất trong quá trình áp dụng, dẫn đến bảng giá đất không phản ánh đúng giá đất thực tế trên thị trường.

Thể chế hóa Nghị quyết số 18 và trên cơ sở thống nhất giữa các cơ quan, dự thảo Luật quy định ban hành bảng giá đất hằng năm để bảo đảm bám sát diễn biến thực tế thị trường và mở rộng phạm vi áp dụng bảng giá đất. Dự thảo Luật cũng quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung bảng giá đất để công bố và áp dụng từ ngày 1/1 của năm tiếp theo hoặc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung trong năm và giao Chính phủ quy định chi tiết để bảo đảm bảng giá đất sẽ được cập nhật phù hợp với thực tế.

Các đại biểu dự phiên bế mạc. Ảnh: quochoi.vn.

Các đại biểu dự phiên bế mạc. Ảnh: quochoi.vn.

Để bảo đảm chất lượng bảng giá đất, các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp cần nâng cao hơn nữa năng lực trong quá trình tổ chức thực thi pháp luật, hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu số và hệ thống thông tin quốc gia về đất đai để trực tiếp phục vụ cho công tác quản lý và sử dụng đất đai, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ sẽ chỉ đạo trong quá trình thực hiện Luật.

Giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu về phương pháp thặng dư (điểm c khoản 5 Điều 158), có ý kiến đề nghị tại khoản 5 không quy định phương pháp thặng dư trong định giá đất.

Ông Vũ Hồng Thanh cho biết, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, định giá đất là vấn đề khó, nội dung quy định tại dự thảo Luật đã được Quốc hội, Chính phủ tiếp thu ý kiến đại biểu quốc hội, nghiêm túc nghiên cứu để thiết kế các phương pháp định giá vừa có tính kế thừa, vừa có tính cụ thể hóa thực tiễn, có đổi mới nhưng phải có tính bao quát để có thể áp dụng cho các trường hợp cụ thể, lâu dài.

Dự thảo Luật quy định mang tính nguyên tắc, xác định rõ về nội hàm và trường hợp, điều kiện áp dụng từng phương pháp. Các cơ quan đã cân nhắc kỹ lưỡng và thống nhất cao về việc tiếp tục quy định tại dự thảo Luật về phương pháp thặng dư.

Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay nền kinh tế đang phát triển thì việc sử dụng phương pháp thặng dư trên cơ sở ước tính giá trị tương lai là cần thiết vì chưa có sẵn những thông tin dự án tương tự đã hình thành và giao dịch để áp dụng các phương pháp định giá khác.

Mặt khác, về cả khoa học và thực tiễn, phương pháp thặng dư hiện vẫn đang được sử dụng trên thế giới cũng như tại Việt Nam.

Về thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 79), có ý kiến đề nghị bỏ khoản 32 Điều 79 dự thảo Luật, thực hiện theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Trên cơ sở trao đổi kỹ lưỡng và thống nhất giữa các cơ quan, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội theo hướng, tiếp tục quy định rõ tại khoản 32 Điều 79 đây là trường hợp được Quốc hội xem xét theo trình tự, thủ tục rút gọn, tương tự quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Đầu tư năm 2020 về sửa đổi, bổ sung danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.

Về hiệu lực thi hành (Điều 252), tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội và trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, dự thảo Luật quy định hiệu lực sớm đối với Điều 190 và Điều 248 dự thảo Luật từ ngày 1/4/2024.

Thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi)

Báo cáo trước Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).

Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật bảo đảm thận trọng, kỹ lưỡng, bám sát yêu cầu cơ cấu lại, nâng cao năng lực, hiệu quả của hệ thống tổ chức tín dụng theo đúng chủ trương của Đảng, nghị quyết của Quốc hội. Ngày 16/01/2024, Chính phủ đã có Báo cáo số 18/BC-CP về ý kiến đối với tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật.

Liên quan đến một số vấn đề lớn tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, về một số quy định liên quan đến xử lý sở hữu chéo, thao túng, chi phối tổ chức tín dụng (tại khoản 24 Điều 4, Điều 63, Điều 136), có ý kiến đề nghị quy định người có liên quan phù hợp với loại hình quỹ tín dụng nhân dân.

Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã quy định phạm vi người có liên quan đối với quỹ tín dụng nhân dân hẹp hơn so với các loại hình tổ chức tín dụng khác và thể hiện tại điểm h khoản 24 Điều 4 của dự thảo Luật.

Có ý kiến cho rằng biện pháp giảm tỷ lệ sở hữu cổ phẩn, giảm giới hạn cấp tín dụng chưa xử lý được vấn đề sở hữu chéo, thao túng, chi phối như thời gian vừa qua, quan trọng là việc giám sát thực thi.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với ý kiến của đại biểu Quốc hội, bên cạnh quy định việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần, giới hạn cấp tín dụng và một số quy định trong tổ chức, quản trị, điều hành, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về cung cấp, công bố công khai thông tin (Điều 49), trong đó, cổ đông sở hữu từ 01% vốn điều lệ trở lên của tổ chức tín dụng phải thực hiện cung cấp thông tin, tổ chức tín dụng phải công bố công khai thông tin của các cổ đông này để bảo đảm minh bạch.

Về hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng (tại Điều 5, Điều 113), Chủ nhiệm Vũ Hồng Thanh cho biết, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, người quản lý, người điều hành, nhân viên của tổ chức tín dụng , chi nhánh ngân hàng nước ngoài gắn việc bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức.

Đồng thời, giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định phạm vi hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng để phù hợp với tính chất và hoạt động của lĩnh vực ngân hàng.

Về can thiệp sớm tổ chức tín dụng (tại Điều 159, Điều 161), có ý kiến đề nghị cân nhắc kỹ lưỡng điểm a và b khoản 2 Điều 159 của dự thảo Luật quy định tổ chức tín dụng phải thuyết minh rõ số dự phòng rủi ro chưa được trích lập, số lãi phải thu phải thoái chưa phân bổ trong báo cáo tài chính, bao gồm cả báo cáo tài chính niêm yết công khai tại dự thảo Luật.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, tại Điều 154 của dự thảo Luật đã quy định việc công khai báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp tổ chức tín dụng đang được kiểm soát đặc biệt. Do vậy, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội theo hướng quy định về dự phòng rủi ro chưa được trích lập, số lãi phải thu phải thoái chưa phân bổ như tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 159 của dự thảo Luật.

Về chấm dứt can thiệp sớm, có ý kiến cho rằng, tại Điều 161 cần quy định thống nhất việc Ngân hàng Nhà nước có văn bản áp dụng và chấm dứt can thiệp sớm tại dự thảo Luật tương tự như quy định tại khoản 3 Điều 130a Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành.

Có ý kiến đề nghị giữ quy định về can thiệp sớm như dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 hoặc bỏ quy định Ngân hàng Nhà nước phải có văn bản quyết định chấm dứt can thiệp sớm.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý điểm a khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 161 theo hướng Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt việc thực hiện văn bản yêu cầu quy định khoản 2 Điều 156 của Luật này khi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khắc phục được tình trạng dẫn đến can thiệp sớm. Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm theo dõi, giám sát và bảo đảm thực trạng của tổ chức tín dụng đã khắc phục được tình trạng dẫn đến can thiệp sớm.

Về cho vay đặc biệt quỹ tín dụng nhân dân (tại Điều 193), có ý kiến đề nghị bỏ quy định Ngân hàng Nhà nước quyết định việc cho vay đặc biệt của ngân hàng hợp tác xã với lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm đối với quỹ tín dụng nhân dân tại dự thảo Luật.

Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉnh lý khoản 2 Điều 193 theo hướng quy định ngân hàng hợp tác xã quyết định cho vay đặc biệt đối với quỹ tín dụng nhân dân.

Về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm (tại Chương XII), tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉnh lý theo hướng quy định về chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản là tài sản bảo đảm để thu hồi nợ tại khoản 3 Điều 200 và về chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản đã nhận làm tài sản bảo đảm trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành để thu hồi nợ tại khoản 15 Điều 210 của dự thảo Luật

Về hiệu lực thi hành (Điều 209), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản số 358/NHNN-PC đề xuất chỉnh lý quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 209 về hiệu lực thi hành của dự thảo Luật như sau:

“1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2024, trừ quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Khoản 3 Điều 200 và khoản 15 Điều 210 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2025”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với đề nghị của Cơ quan soạn thảo; đề nghị Chính phủ khẩn trương xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn, bảo đảm có hiệu lực đồng thời với Luật.

Sau khi nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật này.

Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 450 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ 91,28%). Như vậy, với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).

Thông qua nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia

Tại phiên họp, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm đã trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm. Ảnh: quochoi.vn.

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm. Ảnh: quochoi.vn.

Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về nội dung này, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm cho biết, ngày 16/01/2024, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ và Hội trường về “dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia” (sau đây viết tắt là dự thảo Nghị quyết), có 119 ý kiến phát biểu tại Tổ và 08 ý kiến phát biểu tại Hội trường.

Đa số ý kiến đại biểu Quốc hội nhất trí với sự cần thiết, tên gọi, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Nghị quyết; hồ sơ đảm bảo theo quy định của pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét thông qua tại kỳ họp này.

Về phân bổ, giao dự toán chi thường xuyên ngân sách trung ương hằng năm (khoản 1), có ý kiến đề nghị tại điểm c, nêu rõ “trong trường hợp cần thiết Hội đồng Nhân dân tỉnh phân cấp cho cấp huyện…”, cần cụ thể để thực hiện.

Có ý kiến cho rằng, Hội đồng nhân dân tỉnh chỉ giao tổng vốn cho cấp huyện, việc phân bổ chi tiết các dự án, tiểu dự án thành phần nên giao cho cấp huyện để chủ động, linh hoạt điều chỉnh các dự án, tiểu dự án.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, ý kiến của đại biểu là xác đáng và tiếp thu tại điểm c như sau: “Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, hoặc phân cấp cho Hội đồng nhân dân cấp huyện phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách trung ương hằng năm của từng chương trình mục tiêu quốc gia chi tiết đến dự án thành phần”.

Về điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn hằng năm (khoản 2), tại điểm c, có ý kiến cho rằng, cần phân cấp cho địa phương được quyền điều chỉnh dự toán, kế hoạch giữa các chương trình và giữa vốn sự nghiệp với vốn đầu tư nhưng phải có nguyên tắc để đảm bảo các mục tiêu chung của chương trình.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với quan điểm của Chính phủ, việc cho phép điều chỉnh cả 03 chương trình sẽ phá vỡ cơ cấu các chương trình, phát sinh thêm nhiều thủ tục, khó đạt mục tiêu và có thể dẫn đến phải điều chỉnh chủ trương đầu tư, trong khi thời gian thực hiện chỉ còn 02 năm, do vậy xin được giữ như nội dung dự thảo Nghị quyết.

Về ban hành quy định trình tự, thủ tục, tiêu chí, mẫu hồ sơ lựa chọn dự án phát triển sản xuất (khoản 3), có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định Ủy ban Nhân dân được quyền điều chỉnh các quy định do Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành, như vậy chưa đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, ý kiến tham gia là phù hợp và tiếp thu, điều chỉnh theo hướng, Quốc hội cho phép Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo với Thường trực Hội đồng nhân dân cho phép điều chỉnh, báo cáo lại Hội đồng nhân dân ở kỳ họp gần nhất để tạo sự linh hoạt, kịp thời cho địa phương.

Về sử dụng ngân sách nhà nước trong trường hợp giao chủ dự án phát triển sản xuất tự thực hiện việc mua sắm hàng hóa cho hoạt động phát triển sản xuất (khoản 4), một số ý kiến băn khoăn về tính khả thi, mức độ phức tạp của việc xác định giá, quy trình, thủ tục thanh, nhất là việc giao cho cấp xã xác định giá hàng hóa theo thị trường; xác nhận thủ tục thanh toán đối với các trường hợp mua hàng hóa của người dân, cộng đồng.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, chỉnh lý tại khoản 4 dự thảo Nghị quyết.

Về quản lý, sử dụng tài sản hình thành từ dự án hỗ trợ phát triển sản xuất (khoản 5), đa số ý kiến thống nhất không áp dụng quy định quản lý tài sản công đối với tài sản có vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước dưới 500 triệu, đồng thời đề nghị cần làm rõ cơ sở xác định mức dưới 500 triệu và cần phải có nguyên tắc, cơ chế quản lý đối với các tài sản có giá trị từ 500 triệu trở lên.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, cơ sở để đề xuất mức dưới 500 triệu không áp dụng quy định quản lý tài sản công đã được Chính phủ giải trình làm rõ trong Tờ trình số 13/TTr-CP ngày 12/01/2024. Việc xác định dựa trên cơ sở tham khảo mức giá trị tài sản theo quy định về xác định giá trị tài sản, vật tư, vật liệu trong quá trình tổ chức thanh lý tài sản công quy định tại Điều 31 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 và quy định về giá trị tài sản lớn của một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương.

Đối với việc quản lý, hỗ trợ đối với tài sản có giá trị từ 500 triệu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, sửa đổi, bổ sung vào điểm b của Nghị quyết: “Đối với tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, có vốn hỗ trợ tối đa không quá 20% giá trị tài sản và không vượt quá tổng mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo từng dự án cụ thể được cấp có thẩm quyền phê duyệt”.

Về cơ chế thí điểm phân cấp cho cấp huyện trong quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (khoản 7), tiếp thu ý kiến của đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thể hiện tại điểm a, khoản 7 dự thảo Nghị quyết, theo đó Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao nhiệm vụ cho cấp huyện được lựa chọn thí điểm. Đồng thời, giao Hội đồng nhân dân tỉnh căn cứ tình hình thực tiễn để quyết định lựa chọn không quá 02 huyện thực hiện thí điểm.

Về giao kế hoạch đầu tư công trung hạn, đầu tư vốn hằng năm đối với dự án đầu tư xây dựng có quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp (khoản 8), Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu, bổ sung vào điểm a, khoản 8 nội dung như dự thảo.

Về hiệu lực thi hành, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, Nghị quyết có hiệu lực từ ngày ban hành cho đến khi Quốc hội có quy định khác là phù hợp trong khi thực hiện thí điểm.

Sau khi nghe Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết này.

Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 455 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ 92,29 %).

Như vậy, với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.

Quốc hội thông qua nghị quyết về sử dụng dự phòng chung, dự phòng nguồn ngân sách Trung ương

Trước khi Quốc hội biểu quyết, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh đã trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về việc sử dụng dự phòng chung, dự phòng nguồn ngân sách trung ương của Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 cho các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh. Ảnh: quochoi.vn.

Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh. Ảnh: quochoi.vn.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho biết, về sự cần thiết đầu tư các dự án, danh mục các dự án sử dụng dự phòng chung nguồn ngân sách trung ương của Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 tương ứng với nguồn tăng thu ngân sách Trung ương năm 2022 đã được Chính phủ và các bộ, ngành và địa phương rà soát kỹ lưỡng về tính cần thiết, cấp thiết; việc bố trí vốn tập trung cho 05 ngành, lĩnh vực quan trọng, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và quy định của Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Quốc hội.

Đối với Dự án cấp điện từ lưới điện quốc gia cho huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tờ trình của Chính phủ đã thuyết minh về sự cần thiết, nhu cầu, ý nghĩa của dự án cấp điện đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện Côn Đảo, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng và bảo đảm chủ quyền biển đảo quốc gia. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội về một số vấn đề cần lưu tâm khi triển khai Dự án, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp thu và thể hiện tại Điều 2 của dự thảo Nghị quyết.

Về các dự án chưa đủ thủ tục đầu tư: Có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị chưa bố trí vốn cho các dự án này, tại kỳ họp này, Quốc hội chưa quyết định phân bổ cụ thể vốn cho các dự án chưa đủ thủ tục.

Dự thảo Nghị quyết giao Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương hoàn thiện thủ tục đầu tư các dự án. Khi đủ thủ tục đầu tư, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định trước khi Chính phủ giao vốn cho các Bộ, ngành, địa phương.

Để bảo đảm sử dụng vốn hiệu quả, kịp thời, cho phép trong trường hợp cấp bách, giữa 02 kỳ họp Quốc hội, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Đối với dự án quan trọng quốc gia, Chính phủ trình Quốc hội quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư theo đúng quy định của Luật Đầu tư công.

Về một số trường hợp bố trí vượt mức quy định tại khoản 2 Điều 89 của Luật Đầu tư công, theo Tờ trình của Chính phủ, hầu hết các dự án dự kiến bố trí đủ nguồn, riêng có 04 dự án: (1) Trung tâm dữ liệu quốc gia, (2) Trang bị trang phục chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ mới cho lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy, (3) Đầu tư trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ cho lực lượng Ngoại tuyến giai đoạn 2021-2025, (4) Đầu tư trang bị cho Công an phường, hiện còn chưa dự kiến được đầy đủ nguồn vốn theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, đây là các dự án quan trọng, cấp bách cần triển khai ngay để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ phối hợp với Chính phủ để tăng cường các nguồn lực như tăng thu, tiết kiệm chi, dự phòng ngân sách hằng năm để bố trí đủ vốn đáp ứng yêu cầu đầu tư cho các dự án.

Sau khi nghe Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về việc sử dụng dự phòng chung, dự phòng nguồn ngân sách trung ương của Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 cho các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua dự thảo Nghị quyết này.

Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 466 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ 94,52%).

Như vậy, với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua dự thảo Nghị quyết về việc sử dụng dự phòng chung, dự phòng nguồn ngân sách trung ương của Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 cho các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

Huệ Phương