Thực hiện Nghị quyết 29, tự chủ đại học là một điểm sáng nhưng vẫn còn khó khăn

23/07/2024 06:28
Ngân Chi

GDVN- Mức độ tự chủ đại học khác nhau, không phải chỉ do chồng chéo trong các quy định, mà còn do năng lực thực hiện của mỗi trường, thể chế của cơ quan chủ quản.

Ngày 22/7, Hội thảo quốc tế “Giáo dục đại học vì sự phát triển châu Á” - do Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông, Trường Đại học Phú Yên, và Tổ chức đối thoại châu Á (ADS) Singapore tổ chức tiếp tục diễn ra.

GDVN_ảnh toàn.jpg
Hội thảo quốc tế “Giáo dục đại học vì sự phát triển châu Á” ngày 22/7.

8 xu hướng quan trọng trong phát triển giáo dục đại học

Phát biểu tại hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Hoàng - Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo Trung ương cũng có một số chia sẻ về tự chủ đại học.

GDVN_Hoàng.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Hoàng - Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo Trung ương. Ảnh: Ngân Chi.

Theo đó, năm 2023, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị Báo cáo Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Hoàng, điểm nhấn của các cơ sở giáo dục đại học chính là tự chủ đại học. Cơ chế tự chủ đại học đã tạo ra ra một động lực mới thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở giáo dục đại học. Tự chủ đại học là một điểm sáng nhưng vẫn còn khó khăn, không phải trường nào cũng thực hiện được, chỉ có một số trường bứt phá. Ngoài ra, còn rất nhiều trường loay hoay và gặp khó trong tiến trình thực hiện tự chủ.

Về vấn đề phát triển nguồn nhân lực liên quan đến khoa học công nghệ, hiện nay, đến 70% học sinh lớp 12 khi đăng ký thi tốt nghiệp trung học phổ thông lựa chọn tổ hợp khoa học xã hội, nên rất nhiều em lựa chọn các ngành nghề liên quan đến khoa học xã hội và nhân văn. Như vậy, lĩnh vực toán, khoa học kỹ thuật và công nghệ sẽ giảm sút, đặc biệt trong 10 năm tới, nguồn nhân lực này sẽ bị thiếu hụt. Trong khi đó, đứng trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đây là một bài toán lớn.

Thứ hai, bối cảnh của Việt Nam trong thời gian tới, có 3 nghị quyết quan trọng của Đảng ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến giáo dục đại học. Suy cho cùng, giáo dục đại học là để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó: Xác định nội dung cốt lõi của chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta là thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả các ngành, lĩnh vực và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trọng tâm là phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Muốn phát triển đất nước, bắt buộc phải dựa vào phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Giải thưởng Sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam là một hoạt động cụ thể triển khai Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 14/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam.

Toàn bộ những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến những chính sách, định hướng phát triển hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.

Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.

Trong nghị quyết này, bàn về đội ngũ trí thức, nhưng thực chất, đội ngũ trí thức lại tồn tại chủ yếu trong hệ thống giáo dục đại học, vậy nên, các giải pháp, các mục tiêu chung thường gắn với khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo, phát triển công nghệ cao.

Trong đó, có hai điểm nhấn: Tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài trong các cơ sở giáo dục đại học; Phát triển một số cơ sở nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học đạt trình độ tiên tiến, thuộc nhóm hàng đầu Châu Á; trong đó Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh được xếp hạng trong nhóm 500 đại học hàng đầu thế giới.

Ngoài ra, còn có 2 Kết luận: Kết luận số 69-KL/TW ngày 11/01/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 01/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Và trong thời gian tới, sẽ có Kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo...

Như vậy, 3 nghị quyết và 2 kết luận tạo khung khổ về mặt chính trị chủ trương đường lối phát triển kinh tế xã hội thông qua giáo dục đại học trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Hoàng cũng chỉ ra có 8 xu hướng rất quan trọng trong phát triển giáo dục đại học trong giai đoạn tới: Một là, chất lượng: Nghị quyết 29 có một câu trong phần mục tiêu “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo...”. Nói đến giáo dục là nói đến chất lượng, và giáo dục đại học càng phải chất lượng. Trong nghị quyết có nói: Tập trung đầu tư, tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo, trình độ nguồn nhân lực để đảm bảo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hai là, xu hướng về cần nâng cao tỉ lệ số lượng nhân lực trong các ngành khoa học công nghệ, STEM, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là những ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ...

Ba là, xu hướng nâng cao trình độ, tiếng Anh từng bước trở thành ngôn ngữ thứ hai, đồng thời tạo cơ chế chính sách cho sinh viên vay vốn.

Bốn là, xu hướng giúp chúng ta bắt nhịp với xu hướng chung của thế giới. Đó là nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học.

Năm là, liên quan đến chuyển đổi số. Vấn đề này Chính phủ đang rất quyết liệt, các trường đều hướng đến đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo, phát triển giáo dục số, giáo dục thông minh,...

Sáu là, tăng đầu tư cho giáo dục đại học. Theo đó, không phải đầu tư dàn trải mà sẽ có cơ chế để phân bổ ngân sách đầu tư cho phù hợp, tạo động lực phát triển.

Bảy là, tập trung xây dựng các cơ sở giáo dục đại học đẳng cấp quốc tế.

Tám là, trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, khoa học xã hội và nhân văn phải có sự thích ứng để con người hạnh phúc với sự phát triển của khoa học công nghệ. Giáo dục đại học phải là quá trình có thể phát huy, xây dựng những giá trị con người...

Cơ sở giáo dục đại học làm sai, sẽ mất quyền tự chủ

Tại hội thảo, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thủy - Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) có một số chia sẻ đến các diễn giả và đại biểu đã quan tâm đến những vấn đề của giáo dục đại học.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thủy chia sẻ quan điểm: Để đào tạo nguồn nhân lực phát triển công nghệ cao, sẽ dựa trên nền tảng giáo dục STEM và cần có các chính sách đột phá cho việc phục vụ phát triển công nghệ cao.

Các chính sách mà hiện nay chúng ta chưa đạt được, đang cần có sự cải tiến, các chương trình hành động chính sách cụ thể, rõ ràng, những chính sách đột phá cho đào tạo nhân lực như hỗ trợ người học, có cách thay đổi chính sách tín dụng cho sinh viên, các chính sách về học bổng trong những sinh viên theo học các ngành STEM, phục vụ các ngành công nghệ cao.

Đặc biệt, ngoài nguồn kinh phí, nguồn lực của Nhà nước hỗ trợ cho chính sách này, bản thân các doanh nghiệp và các bên liên quan cũng sẽ phải tham gia vào. Ví dụ, có thể cho sinh viên vay tiền, sau khi tốt nghiệp, đi làm có thể trả lại cho Nhà nước/doanh nghiệp. Đó là những cơ chế mà chúng ta cần quan tâm, điều chỉnh trong thời gian tới để tạo cơ hội cho nhiều em sinh viên tại các vùng miền có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau cùng được đào tạo ở các ngành phát triển công nghệ cao, như công nghệ sinh học, phục vụ phát triển tăng trưởng xanh, phục vụ chuyển đổi số, AI...

GDVN_Thuy.jpg
Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thủy - Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo). Ảnh: Ngân Chi.

Người học ở các chương trình đào tạo, nghiên cứu để có thể đưa ra các phát minh, sáng chế, phát minh, công nghệ hỗ trợ cho phát triển công nghệ cao mà hiện nay chúng ta đang thiếu hụt nhân lực đào tạo sau đại học.

Nếu thay đổi các chính sách hỗ trợ người học không cần đóng học phí, có các đề tài nghiên cứu để thực hiện các đề tài trong quá trình nghiên cứu,

Tuy nhiên, đối với các chính sách này, không phải cứ Bộ Giáo dục và Đào tạo muốn là có thể tham mưu cho Chính phủ ban hành được. Bộ Giáo dục và Đào tạo đầu mối về chuyên môn, nhưng những chính sách về phân bổ tài chính, về tín dụng, lại do Bộ Tài chính, các chính sách về khoa học công nghệ, đề tài nghiên cứu lại thuộc một phần quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Với tư cách là đầu mối tham mưu cho Chính phủ về đào tạo nguồn nhân lực, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang nỗ lực thực hiện các chế độ, chính sách đó một cách hiệu quả nhất.

Bên cạnh chính sách đối với người học, cũng có chính sách đối với giảng viên, để giảng viên có thể đi học tập, nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước, nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho giảng viên; cũng như chính sách thu hút giảng viên từ nước ngoài hoặc giảng viên giỏi từ doanh nghiệp để làm việc, nghiên cứu trong các trường đại học... tất cả đều đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng các Bộ ngành liên quan nghiên cứu để xây dựng có đề án phát triển nhân lực công nghệ cao.

Bên cạnh đó, theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thủy, về vấn đề tự chủ đại học, chính sách tự chủ đại học đã được triển khai sâu rộng ở toàn bộ hệ thống giáo dục đại học. Hiện nay, có rất nhiều cơ sở giáo dục đại học đã triển khai rất thành công và hầu hết các cơ sở giáo dục đại học tự chủ về mặt học thuật. Tuy nhiên, với các cơ sở giáo dục đại học khác nhau, có năng lực thực hiện khác nhau, thì mức độ tự chủ sẽ khác nhau.

Ví dụ, có những cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ không đúng theo quy định của luật, hiện nay, có các quy định về chuẩn cơ sở giáo dục đại học, nếu trường nào thực hiện sai, ảnh hưởng đến người học, ảnh hưởng đến xã hội ảnh hưởng đến các bên liên quan, thì cơ sở giáo dục đó không được thực hiện quyền tự chủ nữa.

Tức là, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải có chế tài, xem xét, kiểm tra, thẩm tra đối với những trường đó, có thể sẽ mất quyền tự chủ đối với những vấn đề làm sai đó trong bao nhiêu năm, đến khi đảm bảo thực hiện đúng.

Đối với tự chủ tài chính và nhân sự, luật đã quy định rất rõ ràng, nhưng đối với các trường công, còn chịu sự chi phối của nhiều quy định trong các luật khác, các quy định liên quan đến các Bộ ngành khác. Do đó, ví dụ, nguồn thu của nhà trường nhưng khi muốn đầu tư kinh phí, vẫn phải thực hiện theo quy định như một đơn vị sự nghiệp công lập.

Nếu sau này, các nội dung có liên quan trong các luật khác được quy định thống nhất với Luật Giáo dục đại học, thì sẽ không có vấn đề gì. Nhưng trên thực tế, không chỉ quy định của pháp luật mới có sự chồng chéo như vậy, chẳng hạn việc huy động vốn ODA tại các trường cũng đã mỗi trường có sự khác nhau, có trường làm được, có trường không.

Như vậy, không phải chỉ do pháp luật quy định, mà còn do năng lực thực hiện ở các trường. Ví dụ, đối với các trường trực thuộc Bộ Y tế, việc tổ chức bộ máy nhân sự sẽ khác so với các trường trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cơ chế và năng lực thực hiện ở các đơn vị chủ quản cũng như tại mỗi cơ sở giáo dục đại học hiện nay đang khác nhau.

Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học cho biết: “Sau khi tổng hợp lại, chúng tôi nhận thấy, vấn đề không chỉ nằm ở việc quy định giữa các văn bản bị chồng chéo, điều đó là có nhưng không phải là chủ yếu, mà quan trọng nhất hiện nay là năng lực thực hiện tại các cơ sở giáo dục đại học khác nhau, cũng như cơ chế của các cơ quan chủ quản khi triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật 34) không giống nhau.

Theo tinh thần đó, hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng các chính sách chỉ dựa trên phương diện: Quy định các công cụ quản lý nhà nước để đảm bảo quyền lợi cho người học, đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên có lợi ích liên quan tới hệ thống giáo dục đại học. Ví dụ, doanh nghiệp phải hiểu rõ các cơ sở giáo dục đại học đang làm gì? Muốn như vậy, các trường phải công khai đường link các số liệu. Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay đang theo hướng quy định các tiêu chuẩn, tiêu chí đối với hệ thống giáo dục đại học. Ngoài ra, Bộ hướng đến các chính sách hỗ trợ tốt nhất cho người học, người dạy và hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục”.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thủy cũng nhấn mạnh, 3 yếu tố chính của hệ thống giáo dục đại học để thực hiện tốt và phục vụ xã hội, phục vụ đất nước gồm: chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế.

Đầu tư cho các cơ sở giáo dục đại học như thế nào, nhất là về tài chính?

Tại hội thảo, Tiến sĩ Trần Thu Hà - nguyên Vụ trưởng Vụ Hành chính Văn xã (Bộ Tài chính) cũng có tham luận “Đầu tư cho giáo dục đại học Việt Nam để góp phần phát triển giáo dục đại học châu Á”.

Theo đó, giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy nền kinh tế và nâng cao vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế. Đầu tư vào giáo dục đại học không chỉ là nhiệm vụ cấp bách mà còn là chiến lược dài hạn để Việt Nam bắt kịp với xu hướng phát triển giáo dục đại học trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ, vai trò của giáo dục đại học trở nên càng quan trọng. Các quốc gia có hệ thống giáo dục đại học phát triển tiên tiến có thể đào tạo lực lượng lao động với kỹ năng cao góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Đối với Việt Nam, việc đầu tư nâng cao giáo dục đại học là cần thiết cho sự phát triển của quốc gia, đảm bảo hội nhập với nền kinh tế châu lục và toàn cầu.

GDVN_Ha.jpg
Tiến sĩ Trần Thu Hà - nguyên Vụ trưởng Vụ Hành chính Văn xã (Bộ Tài chính). Ảnh: Ngân Chi.

Tiến sĩ Trần Thu Hà cho hay: “Việt Nam hiện có 239 cơ sở giáo dục đại học (trong đó có 172 cơ sở giáo dục đại học công lập và 67 cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập). Trong những năm gần đây hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể, một số trường đại học Việt Nam đã được xếp hạng cao trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, chất lượng giảng viên và chương trình giảng dạy.

Vì vậy, Việt Nam cần có chiến lược đầu tư hiệu quả để đóng góp phát triển giáo dục đại học châu Á và toàn thế giới”.

Trong đó, nguyên Vụ trưởng Vụ Hành chính Văn xã (Bộ Tài chính) đề cập đến 6 yếu tố cần được chú trọng đầu tư:

Thứ nhất, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng: Đây là vấn đề cơ bản để nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu khoa học công nghệ. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng giáo dục đại học Việt Nam theo 2 phạm vi: (i) Diện tích của cơ sở giáo dục đại học và (ii) Thiết thiết bị bên trong cơ sở giáo dục đại học.

Về diện tích của cơ sở giáo dục đại học: Cơ sở đại học cần một khuôn viên diện tích phù hợp với quy mô phát triển hàng năm và nhiều năm. Theo Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT ngày 05/02/2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo có hiệu lực từ ngày 22/03/2024 thì diện tích đất bình quân của một người học chính quy không nhỏ hơn 25 m²/người học. Tuy nhiên, theo tìm hiểu, trường có diện tích đất nhỏ nhất thì tỉ lệ này chỉ khoảng 14 m²/người học, trường lớn cũng chỉ khoảng 20 m²/người học.

Như vậy giải pháp để đạt chuẩn diện tích của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là mở thêm các địa điểm mới hoặc sát nhập các cơ sở giáo dục đại học hiện có để đến năm 2030 đạt chuẩn theo quy định tại Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT.

Cách thứ nhất, mở thêm cơ sở mới cho các trường đại học ra khỏi nội đô; thứ hai là sáp nhập các trường đại học lại với nhau.

Về trang thiết bị bên trong cơ sở giáo dục đại học: Theo Thông tư số 09/2022/TT-BGDĐT ngày 06/06/2022 của Bộ Giáo dục Đào tạo về việc ban hành Danh mục thống kê ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ có hơn 470 ngành nghề của 24 nhóm ngành. Đây là xương sống của toàn bộ hệ thống giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế Việt Nam. Để đánh giá chất lượng đào tạo của 24 nhóm ngành nghề này thì việc quy chuẩn trang thiết bị cần được các cơ quan quản lý nhà nước quy định chi tiết và cụ thể. Có như vậy, các cơ sở giáo dục đại học mới có căn cứ đầu tư trang thiết bị phù hợp với ngành nghề đào tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển hiện đại của Việt Nam, châu Á và toàn cầu.

Thứ hai, đầu tư nâng cao chất lượng giảng viên: Theo báo cáo kết quả năm học 2021-2022 cho thấy, đội ngũ giảng viên đại học toàn thời gian tính đến 31/12/2021 có 0,89% là giáo sư, 6,21% là phó giáo sư, 25,19% trình độ tiến sĩ, 60,35% trình độ thạc sĩ và 7,36% trình độ đại học. Đánh giá về số liệu trên, Phó giáo sư Nguyễn Ngọc Bình - Hiệu trưởng Trường Đại học CMC cho rằng tổng số giáo sư, phó giáo sư chỉ chiếm 7% trong tổng số giảng viên đại học. Trong khi đó, cuối năm 2010, theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục Đào tạo tổng số giáo sư, phó giáo sư chiếm 8%. Như vậy, sau 12 năm, số lượng giáo sư và phó giáo có xu hướng giảm đáng kể. Thực trạng đội ngũ giảng viên đại học hiện rất đáng lo ngại.

Giải pháp để đầu tư nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ giảng viên đại học cần đồng bộ cả 3 phía:

Bộ Giáo dục và Đào tạo có chính sách bình đẳng khi đào tạo giảng viên đại học ở trường công và trường tư, khuyến khích mọi giáo viên được nâng cao trình độ theo Quyết định số 89/2019/QĐ-TTg ngày 18/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ về đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019- 2030.

Các cơ sở giáo dục đại học xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch và cơ cấu trình độ giảng viên đại học qua từng nhiệm kỳ.

Từng giảng viên đại học nhận thức được việc nâng cao trình độ tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư là nhiệm vụ song song với việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Vì vậy, hằng năm đăng ký với khoa và trường về việc nâng cao trình độ theo từng giai đoạn.

Thứ ba, đầu tư nâng cao chương trình đào tạo: Có thể nhận thấy số cơ sở giáo dục đại học và số chương trình giáo dục đại học được Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá đạt chuẩn còn quá ít. Điều đó chứng tỏ chất lượng đào tạo đại học Việt Nam phần lớn còn dưới chuẩn. Vậy làm sao để đạt chuẩn chất lượng quốc gia và đóng góp vào nền giáo dục đại học châu Á và thế giới ? Giải pháp khả thi có thể được đặt ra như sau:

Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo: Thời gian đào tạo đại học của các cơ sở giáo dục đại học thường được xây dựng 3, 5, 6 năm. Trong từng giai đoạn này, Bộ GD&ĐT cần đánh giá toàn bộ chương trình đào tạo đại học của các cơ sở để các cơ sở giáo dục đào tạo kịp thời điều chỉnh bổ sung. Bộ Giáo dục và Đào tạo thường niên tổ chức hội thảo với các cơ sở giáo dục đại học trong khu vực châu Á và thế giới về chương trình giáo dục đại học để bắt kịp chương trình tiên tiến trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ.

Về phía các cơ sở giáo dục đại học: Hàng năm, hội đồng trường phân tích đánh giá các chương trình đào tạo các ngành nghề thuộc cơ sở giáo dục đại học, điều chỉnh, bổ sung, nâng cấp và cập nhật chương trình vào từng năm học mới, liên kết với các cơ sở giáo dục đại học trong và ngoài nước có cùng ngành nghề đào tạo để hoàn thiện chương trình đào tạo của cơ sở.

Về phía giảng viên: Hàng năm, giảng viên cần báo cáo với khoa, với cơ sở giáo dục đại học về nội dung đổi mới đối với chương trình đào tạo theo ngành nghề đảm nhiệm.

Thứ tư, đầu tư nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ: Đích đến cuối cùng của cơ sở giáo dục đại học không phải là để xếp hạng quốc tế mà là chất lượng nguồn nhân lực, hội nhập quốc tế, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này, cần tăng cường mạnh mẽ hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2022/NĐ-CP ngày 30/12/2022 quy định về hoạt động khoa học - công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học. Nghị định nêu rõ 10 hoạt động khoa học - công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học: (1) Nghiên cứu chương trình, đề tài, dự án sản xuất thử nghiệm; (2) Sở hữu trí tuệ; ứng dụng và chuyển giao công nghệ; (3) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý, giảng viên về nghiên cứu khoa học; (4) Dự án đầu tư phát triển; (5) Nghiên cứu khoa học của sinh viên; (6) Hợp tác khoa học và công nghệ; (7) Thông tin, thống kê về khoa học và công nghệ; (8) Xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp; (9) Tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ; (10) Các nội dung hoạt động khoa học và công nghệ khác có liên quan đến cơ sở giáo dục đại học. Trong Nghị định cũng nêu rõ cơ sở giáo dục đại học được thành lập doanh nghiệp và các nhóm nghiên cứu khoa học công nghệ, những chính sách ưu đãi đối với giảng viên và sinh viên nghiên cứu khoa học công nghệ.

Các cơ sở giáo dục đại học tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời Nghị định 109/2022/NĐ-CP sẽ nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa công nghệ góp phần phát triển giáo dục đại học Việt Nam và châu Á.

Thứ năm, đầu tư mở rộng hợp tác quốc tế: Để mở rộng hợp tác quốc tế hơn nữa cần thực hiện các giải pháp khả thi như sau:

Chính phủ cần có nhiều dự án đào tạo và nghiên cứu khoa học để nhiều cơ sở giáo dục đại học tham gia trong kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Thực hiện liên kết đào tạo theo nhiều chương trình, nhiều đối tượng, nhiều ngành nghề với các cơ sở giáo dục đại học trong khu vực châu Á và thế giới.

Mở rộng hợp tác nghiên cứu khoa học công nghệ giữa cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu trong nước với nước ngoài.

Áp dụng những cơ chế chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi cho cán bộ quản lý và giảng viên, sinh viên đi trao đổi khoa học, nghiên cứu học tập ở nước ngoài.

Thứ sáu, về nguồn tài chính: Nghị quyết 29/2013/NQ-TW ngày 4/11/2013 nêu rõ: Đổi mới chính sách cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Như vậy đầu tư nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị, chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên, nghiên cứu khoa học công nghệ, hợp tác quốc tế trong các cơ sở giáo dục đại học cần huy động các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước.

Nguồn ngân sách nhà nước: Nghị quyết 29/2013/NQ-TW ngày 4/11/2013 nhấn mạnh: Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục đào tạo, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước, chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng bước đảm bảo đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở giáo dục đại học công lập, hoàn thiện chính sách học phí;

Nguồn đóng góp của xã hội: Xã hội đóng góp thông qua học phí. Chính sách học phí phù hợp với từng ngành nghề đào tạo, từng vùng miền nhằm khuyến khích người học có trách nhiệm trong thời gian học tập và sau khi ra trường.

Nguồn tự tạo của cơ sở giáo dục đại học: Thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của cơ sở giáo dục đại học để tạo nguồn thu, tăng chi. Theo thống kê các trường đại học có doanh thu cao nhất Việt Nam năm 2020, có 15/239 cơ sở giáo dục đại học có nguồn thu 12.492 tỷ đồng tương ứng với 73,5% ngân sách nhà nước đầu tư cho hệ thống giáo dục đại học.

Nếu được ngân sách nhà nước cấp lại số tiền 12.492 tỷ đồng này cho các cơ sở giáo dục đại học, thì các cơ sở giáo dục đại học có thêm nguồn tài chính lớn để đầu tư phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giảng viên….

Nguồn kinh phí từ nước ngoài: Nguồn kinh phí từ nước ngoài đầu tư cho giáo dục đại học Việt Nam thông qua các đề án hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ. Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức WTO thì cơ hội hợp tác quốc tế càng mở rộng và nguồn kinh phí này sẽ càng nhiều hơn;

Nguồn học phí của sinh viên nước ngoài học tại các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam;

Nguồn kinh phí của các trường đại học quốc tế mở tại Việt Nam.

Tiến sĩ Trần Thu Hà kết luận: “Đầu tư cho giáo dục đại học Việt Nam thông qua việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ giảng viên, nâng cao chương trình đào tạo, nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, mở rộng hợp tác quốc tế và khai thác các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian tới sẽ đóng góp tích cực vào việc phát triển giáo dục đại học ở châu Á và trên thế giới”.

Ngân Chi