Một trong những xu hướng nhằm giải quyết bài toán nhân lực đáp ứng yêu cầu của Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện nay là đào tạo tích hợp, liên ngành, xuyên ngành. Theo chia sẻ của một số chuyên gia, trong kỷ nguyên công nghệ số, chương trình đào tạo cần tích hợp được các học phần với kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong cùng một ngành, nhóm ngành đào tạo, giúp trang bị cho người học kiến thức đa ngành, kỹ năng nghề nghiệp tổng hợp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng, vật nuôi làm tư liệu, nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Việc đào tạo tích hợp, xuyên ngành trong nông nghiệp hướng tới không chỉ giúp sinh viên sau khi ra trường nắm vững chuyên môn mà còn ứng dụng được các công nghệ vào thực tiễn nghề nghiệp. Đặc biệt, việc đào tạo kết hợp giữa nông nghiệp với công nghệ, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), khoa học dữ liệu,... giúp nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực lĩnh vực nông nghiệp.
Chú trọng nâng cao chất lượng đầu vào
Trong những năm gần đây, ngành đào tạo nông nghiệp ở một số cơ sở giáo dục đại học chưa thu hút được nhiều sinh viên, điểm trúng tuyển cũng tương đối thấp
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Văn - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Huế) cho biết, nhà trường luôn chú trọng việc nâng cao điểm chuẩn đầu vào tuyển sinh đối với các ngành đào tạo về nông nghiệp. Tuy nhiên, đây là vấn đề vĩ mô, đòi hỏi phải có sự vào cuộc của nhà nước để giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu các trường đại học phải tự chủ tài chính trong bối cảnh số lượng sinh viên đăng ký xét tuyển vào khối ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp giảm nghiêm trọng.

Cũng theo Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Huế), hiện nay hầu hết các trường đào tạo khối ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp tồn tại được là nhờ đào tạo những ngành khác. Cứ những ngành nào có liên quan đến nông nghiệp là ít người học. Ví dụ, Trường Đại học Kinh tế (Đại học Huế) trước đây là một khoa (tên là Khoa Kinh tế nông nghiệp) của Trường Đại học Nông Lâm, từ khi Khoa trở thành trường đại học thì Trường Đại học Kinh tế tuyển sinh rất tốt (hàng năm tuyển 2.000-2.500 sinh viên các ngành kinh tế), nhưng riêng ngành Kinh tế nông nghiệp là ngành lõi (nhờ đó mà phát triển thành trường) năm nào cũng chỉ có khoảng trên dưới 10 sinh viên.
"Nếu không có một chính sách đột phá tầm vĩ mô thì các trường, các ngành đào tạo khối ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp sẽ cứ loay hoay trong tuyển sinh", thầy Văn chia sẻ.
Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quang - Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Thái Nguyên) bày tỏ, đối với các ngành đào tạo về nông nghiệp, có năm, nhà trường có những thí sinh đạt 26-27 điểm theo phương thức xét tuyển dựa vào điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông. Nhưng số lượng này không nhiều. Do đó, việc duy trì chất lượng tuyển sinh như hiện nay đã là cố gắng đối với ngành đào tạo về nông nghiệp chứ chưa bàn đến chuyện nâng mức điểm trúng tuyển.
“Sinh viên tốt nghiệp ngành đào tạo thuộc lĩnh vực nông nghiệp có đầu ra việc làm ổn định, lương có thể cao hơn nhân viên văn phòng ngồi bàn giấy nhưng tính chất công việc vất vả hơn, thậm chí nhiều người cho rằng “kém sang” hơn nhiều lĩnh vực nên cũng khó hấp dẫn người theo học. Vấn đề nâng cao điểm chuẩn đầu vào đối với các ngành đào tạo về nông nghiệp không chỉ là bài toán đối với cơ sở giáo dục, mà còn cần đến sự chung tay của nhà nước. Ví dụ như cần có chế độ hỗ trợ sinh viên học nông nghiệp như sinh viên học các ngành sư phạm để động viên các em”, thầy Quang chia sẻ.
Đồng tình với những quan điểm trên, Tiến sĩ Phan Thu Thảo – Trưởng khoa Thực phẩm, Trường Đại học Đông Á cho biết, tỷ lệ thôi học đối với sinh viên năm nhất theo học các ngành đào tạo nông nghiệp của nhà trường không nhiều.
Điểm đầu vào đối với ngành đào tạo về nông nghiệp cao hay thấp còn phụ thuộc vào nhu cầu đăng ký nguyện vọng của thí sinh. Nếu có tăng điểm trúng tuyển đối với các ngành đào tạo về nông nghiệp thì nên tăng các ngành đào tạo chất lượng cao, các ngành đào tạo giảng dạy bằng tiếng Anh.
Đánh giá về chất lượng tuyển sinh và đào tạo nhân lực phục vụ lĩnh vực nông nghiệp hiện nay, chia sẻ với phóng viên, Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Chí Bửu - Chủ tịch Hội đồng Giáo sư liên ngành Nông nghiệp - Lâm nghiệp năm 2023, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng Sông Cửu Long (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho rằng, chất lượng đầu vào đối với ngành đào tạo về nông nghiệp trình độ đại học vài năm gần đây khá lo ngại, chỉ dao động từ thấp đến rất thấp. Những thí sinh giỏi thường chọn học những ngành nghề khác, dễ tìm việc làm và thu nhập cao.

Theo Giáo sư Bùi Chí Bửu, chất lượng đào tạo nông nghiệp còn tùy thuộc vào từng cơ sở giáo dục đại học. Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học đào tạo nông nghiệp ở Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Thái Nguyên vẫn đang duy trì được uy tín về chất lượng ngành đào tạo về nông nghiệp nhờ có dự án hợp tác quốc tế hoặc được đầu tư có trọng điểm chuyên ngành. Nhưng các trường này cũng có những khó khăn.
Cũng theo Giáo sư Bửu, điểm yếu kém nhất hiện nay trong đào tạo nông nghiệp là không có nhiều điều kiện cho sinh viên thực hành, phòng thí nghiệm còn lạc hậu. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo còn quá nặng về kiến thức lý thuyết; không nhiều kinh phí cho những du khảo để sinh viên tiếp cận với nông dân, hiểu thêm thực tế nông nghiệp trên đồng ruộng.
Chưa kể, khó khăn trong bảo đảm chất lượng đào tạo nông nghiệp là thiếu nguồn kinh phí phục vụ cho nghiên cứu khoa học của sinh viên và giảng viên. Ngoài ra, xã hội ngày càng phát triển, kéo theo đó là tình trạng thiếu thầy cô có khả năng truyền cảm hứng cho sinh viên nông nghiệp.
Thực tế cho thấy, thay vì tập trung vào số lượng tuyển sinh, cơ sở giáo dục đại học cần phải nâng cao chất lượng tuyển sinh đầu vào đối với ngành đào tạo thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Về vấn đề này, thầy Bửu chia sẻ, việc nâng cao chất lượng tuyển sinh quan trọng hơn rất nhiều so với số lượng tuyển sinh.
“Do bối cảnh hiện nay các cơ sở giáo dục đại học “nặng” về thực hiện cơ chế tự chủ nên số lượng sinh viên càng cao thì nguồn thu của trường càng an toàn, bảo đảm cho hoạt động. Nên chăng, tự chủ học thuật cần phải được nhấn mạnh hơn tự chủ tài chính.
Hơn nữa, vấn đề đối với lĩnh vực nông nghiệp còn phải bàn thêm đó là tâm lý sinh viên lo lắng về việc làm và thu nhập sau khi tốt nghiệp. Chưa kể, nếu học sinh phổ thông không được hướng nghiệp từ sớm thì ngành đào tạo về nông nghiệp sẽ khó thu hút được người giỏi”, Giáo sư Bửu chia sẻ.
Cần đào tạo kết hợp giữa nông nghiệp với kiến thức đa ngành
Theo chuyên gia, lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học, để nâng cao chất lượng đào tạo nông nghiệp trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, bên cạnh việc nâng cao điểm chuẩn đầu vào, cần chú trọng đến hướng tiếp cận đào tạo nông nghiệp kết hợp với công nghệ, AI, IoT, tự đồng hóa,...
Chia sẻ về điều này, thầy Quang cho hay, để xây dựng một chương trình đào tạo mang tính tích hợp, liên ngành, xuyên ngành thì phải có những nghiên cứu thực tiễn và lý luận, để từ đó thấy được nhu cầu xã hội về những yếu tố tích hợp, liên ngành, xuyên ngành ra sao chứ không có một chuẩn chung nào.
Ví dụ, đối với sản xuất lúa gạo thì yếu tố xuyên ngành thể hiện ở việc sinh viên nông nghiệp cần được tích hợp các kiến thức, kỹ năng, chuyên môn gì vào trong quá trình đào tạo. Ngoài ra, hiện nay, có một số ngành đào tạo nông nghiệp truyền thống cũng trang bị cho sinh viên vài ba loại kiến thức liên quan như kinh tế nông nghiệp, cây trồng,...
Theo thầy Quang, ngành Nông nghiệp Công nghệ cao là ví dụ tiêu biểu cho đào tạo kết hợp giữa nông nghiệp, công nghệ thông tin, tự động hóa. Cụ thể, nếu như trước đây các ngành đào tạo thuần túy về trồng trọt, chăn nuôi, nông học,... chỉ cung cấp cho người học những hiểu biết về cơ chế, loại cây trồng, dinh dưỡng ra sao thì xu hướng hiện nay là đào tạo tích hợp kiến thức về IT, điều khiển, ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,... Để từ đó, sinh viên học các ngành đào tạo về nông nghiệp có thể hiểu và điều khiển được ánh sáng trong nuôi trồng, hiểu được cơ chế hoạt động của hệ thống tưới tiêu tự động. Đây có thể được hiểu là đào tạo nông nghiệp tích hợp 3 lĩnh vực với nhau, gồm: nông nghiệp, công nghệ thông tin và tự động hóa.
Cùng đưa ra quan điểm, cô Thảo cho hay, dù là nông nghiệp thuần túy, nông nghiệp chuyên sâu, nông nghiệp công nghệ cao (hay nông nghiệp 4.0) thì tính chất nghề nghiệp vẫn tương đối vất vả. Bởi, đặc thù của lĩnh vực này là vừa làm việc ở ngoài trời, vừa trong phòng điều khiển. Một kỹ sư nông nghiệp làm việc không chỉ ngồi trong phòng, quản lý hệ thống qua camera mà còn phải quan sát, tương tác trực tiếp với đối tượng sản xuất nông nghiệp (cây trồng, vật nuôi) để nhận được các kết nối mà không một loại máy móc nào có thể thay thế con người.

Tuy nhiên, nếu ngành đào tạo về nông nghiệp có thể theo hướng xuyên ngành, tích hợp công nghệ, trí tuệ nhân tạo thì sẽ rất tốt. Bởi, thị trường luôn yêu cầu nhân lực vừa hiểu chuyên môn, vừa biết các lĩnh vực liên quan, thậm chí là cần giỏi ngoại ngữ.
Để các ngành đào tạo nông nghiệp đáp ứng công nghệ số, cô Thảo cho rằng, cần thiết kế trong chương trình đào tạo kiến thức về IoT để sinh viên được tiếp cận. Các em cần được hiểu về khái niệm, nội dung liên quan đến các loại máy móc công nghệ đang và sẽ được ứng dụng trong nông nghiệp. Để khi sinh viên ra trường, các em có thể ứng phó nhanh chóng với sự thay đổi của công nghệ.
Chương trình đào tạo về nông nghiệp cũng cần mở rộng các kiến thức liên quan như: bảo quản và chế biến - nhằm mục đích tăng giá trị sản phẩm sau thu hoạch, giúp sinh viên tự khởi nghiệp, tự làm sản phẩm, thương mại hóa sản phẩm; ứng dụng công nghệ cao vào trong nông nghiệp;...
Song, theo cô Thảo, riêng việc ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp có một vấn đề hiện hữu đó là tính chất địa hình,... tại Việt Nam, không phải khi nào và ở đâu cũng có diện tích đủ lớn để sử dụng được máy móc, công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Thực tế người dân sẽ không mua máy móc nông nghiệp về chỉ để phục vụ riêng cho sản xuất gia đình. Muốn sử dụng robot trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, các loại máy cỡ lớn, thông thường người dân sẽ đi thuê nhưng giá thuê rất cao, thậm chí cao hơn cả giá trị của đầu ra nông sản hiện nay. Chính vì vậy, nếu thật sự mong muốn nông nghiệp phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo thì chất lượng đầu ra nông sản phải được xã hội công nhận và có giá trị cao.
“Hiện nay, các ngành đào tạo nông nghiệp của nhà trường đang đưa kiến thức về IT, AI, công nghệ sinh học,... vào dạy cho sinh viên (khoảng hơn chục tín chỉ) ở góc độ giới thiệu, giúp sinh viên có thêm hiểu biết, khi ra trường có thể làm việc trong các doanh nghiệp về nông nghiệp”, cô Thảo chia sẻ.

Trong khi đó, thầy Văn cho biết, trước bối cảnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số vào nhiều lĩnh vực của đời sống, nhà trường đang rà soát lại chương trình đào tạo để điều chỉnh/bổ sung thêm các học phần liên quan đến chuyển đổi số và AI trong lĩnh vực nông nghiệp; đồng thời khuyến khích lồng ghép nội dung chuyển đổi số vào trong quá trình giảng dạy một số học phần chuyên ngành.
Còn theo Giáo sư Bùi Chí Bửu, xu hướng đại học trên thế giới là đào tạo đa ngành (multi discipline). Đối với bậc cử nhân, sinh viên nông nghiệp thường được đào tạo kiến thức cơ bản trong 2 năm đầu tiên, còn 2 năm sau đó, các em theo học chuyên ngành hẹp để tốt nghiệp. Đối với bậc cao học, người tốt nghiệp sẽ có trình độ chuyên sâu hơn trên cơ sở năng khiếu, sở trường, ý thích của bản thân.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, ngành Chăn nuôi, ngành Trồng trọt, ngành Thủy sản, ngành Lâm học là những ngành hết sức rộng lớn; chuyên ngành Di truyền, Bệnh học, Côn trùng học, Vi sinh học, Tin sinh học,... cũng có nội hàm rộng để dẫn đến những chuyên ngành hẹp. Do đó, cần phải có một ngành chủ đạo, trong đó đổi mới các chuyên ngành hẹp tích hợp vào chương trình đào tạo (ví dụ như công nghệ áp dụng trong sinh học để phục vụ chuyển đổi số) mới có thể vừa nâng cao được chất lượng đào tạo lĩnh vực nông nghiệp, vừa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.