Theo tìm hiểu của phóng viên trong Đề án tuyển sinh trình độ đại học của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội trong các năm 2018, 2019, 2020, 2021, 2022 và 2023 có thể thấy, chỉ tiêu tuyển sinh của trường này không có nhiều biến động. Tuy nhiên, số thí sinh nhập học trong nhiều năm lại cao hơn chỉ tiêu.
Trong đó, liên tục trong các năm từ 2018 đến 2021, số chỉ tiêu được giữ nguyên. Con số này chỉ tăng thêm 100 chỉ tiêu vào năm 2022. Theo con số thống kê trong Đề án tuyển sinh năm 2023, trường này vẫn giữ mức chỉ tiêu bằng năm học liền kề trước đó.
Điều này cộng với dữ liệu thống kê về số lượng giảng viên chức danh Phó Giáo sư giảm dần qua các năm trong bài viết "ĐH Kiến trúc Hà Nội không có GV là Giáo sư, chức danh PGS giảm dần qua các năm" được Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải trước đó đã khiến cho nhiều người không khỏi băn khoăn về sự phát triển của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội hiện đang ở mức độ ra sao so với các năm trước đó và cả về sau này.
Cụ thể, trong Đề án tuyển sinh đại học năm 2020, dữ liệu về chỉ tiêu tuyển sinh và số lượng sinh viên nhập học của 2 năm gần nhất cho thấy, trong năm 2018 trường này có tổng 2.180 chỉ tiêu thì có 2.015 thí sinh nhập học. Số lượng thí sinh nhập học phân bổ nhiều ở một số ngành như: Ngành Kiến trúc với 448 thí sinh nhập học/ 500 chỉ tiêu; Ngành xây dựng dân dụng và công nghiệp với 308 thí sinh nhập học/ 450 chỉ tiêu; Ngành Thiết kế nội thất với 243 thí sinh nhập học/ 120 chỉ tiêu.
Trong khi đó các ngành như: Kỹ thuật môi trường chỉ có 5 thí sinh; Ngành Điêu khắc chỉ có 9 thí sinh; Ngành Công nghệ kỹ thuật vật liệu xây dựng và Ngành Kỹ thuật hạ tầng chỉ có 11 thí sinh nhập học.
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Ảnh: Trung Dũng |
Trong năm 2019, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội có cùng tổng số chỉ tiêu như năm trước đó ở mức 2.180 chỉ tiêu, với số lượng nhập học là 2.212 thí sinh.
Trong đó, số lượng thí sinh nhập học phân bổ nhiều ở các ngành như: Kiến trúc với 452 thí sinh nhập học/ 500 chỉ tiêu; Thiết kế nội thất 327 thí sinh nhập học/ 230 chỉ tiêu; Xây dựng dân dụng và công nghiệp 242 thí sinh và ngành Công nghệ thông tin là 218 thí sinh.
Còn với các ngành như: Kỹ thuật môi trường và đô thị; Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông và Xây dựng công trình ngầm đô thị chỉ có 5 đến 6 thí sinh nhập học.
Trong năm 2020, tổng chỉ tiêu của trường đại học này vẫn giữ ở mức 2.180 chỉ tiêu. Tuy nhiên, số lượng thí sinh nhập học là 2.371 thí sinh (hơn 191 chỉ tiêu so với chỉ tiêu công bố).
Con số thống kê trong Đề án tuyển sinh năm 2021 của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội cho thấy trong 2 năm liên tục là 2019, 2020 số lượng sinh viên trúng tuyển nhập học cao hơn so với chỉ tiêu được trường này công bố. Ảnh chụp màn hình Đề án |
Số lượng này phân bổ nhiều ở các ngành như: Kiến trúc với 435 thí sinh nhập học/ 500 chỉ tiêu; Thiết kế nội thất với 450 thí sinh nhập học/ 250 chỉ tiêu; Công nghệ thông tin với 267 thí sinh nhập học/ 200 chỉ tiêu và Ngành Thiết kế đồ họa với 222 thí sinh nhập học/ 230 chỉ tiêu.
Cũng trong năm 2020, lượng thí sinh nhập học ở một số ngành có tỷ lệ thấp trước đó đã được cải thiện và nâng lên mức 2 con số. Cụ thể, ngành ít nhất là Kỹ thuật hạ tầng có 10 thí sinh nhập học; Ngành Công nghệ kỹ thuật vật liệu xây dựng có 14 thí sinh nhập học. Các ngành khác như Kỹ thuật xây dựng và Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông đều có 17 thí sinh nhập học.
Còn trong năm 2021, dù tổng chỉ tiêu của cơ sở này vẫn giữ nguyên ở mức là 2.180 chỉ tiêu, tuy nhiên số lượng thí sinh nhập học lên tới 3.264 thí sinh. Như vậy trong năm này, số thí sinh nhập học đã vượt hơn 1 nghìn thí sinh so với chỉ tiêu.
Số lượng này phân bổ nhiều ở các ngành như: Kiến trúc có 425 thí sinh nhập học/ 500 chỉ tiêu; Thiết kế nội thất với 409 thí sinh nhập học/ 250 chỉ tiêu; Quản lý xây dựng với 305 thí sinh nhập học/ 150 chỉ tiêu; Công nghệ thông tin với 264 thí sinh nhập học/ 200 chỉ tiêu.
Trong năm này cũng ghi nhận một số chuyên ngành mới mở của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Đáng chú ý, các chuyên ngành mới này có tỷ lệ thí sinh nhập học cao hơn so với chỉ tiêu. Cụ thể, chuyên ngành Công nghệ đa phương tiện có 110 thí sinh nhập học/ 50 chỉ tiêu; chuyên ngành Quản lý bất động sản có 73 thí sinh nhập học/ 50 chỉ tiêu; chuyên ngành quản lý dự án xây dựng có 175 thí sinh nhập học/ 50 chỉ tiêu.
Tìm hiểu tiếp trong năm gần đây nhất là năm 2022, chỉ tiêu của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã được tăng lên so với các năm học trước đó, ở mức 2.280 chỉ tiêu. Trong khi đó, tổng số lượng thí sinh nhập học lại giảm so với năm học liền kề trước đó với tổng số 2.721 thí sinh nhập học.
Tương tự thống kê trong Đề án tuyển sinh năm 2023 của trường đại học này cũng cho thấy số lượng sinh viên trúng tuyển nhập học năm 2021, 2022 cao hơn nhiều so với chỉ tiêu. Ảnh chụp màn hình Đề án |
Theo ghi nhận, số lượng thí sinh nhập học vẫn phân bổ nhiều ở các ngành "thương hiệu" như các năm trước đó, một số ngành khác được ghi nhận là vẫn có tổng số sinh viên nhập học cao nhưng lại có dấu hiệu giảm dần số lượng so với các năm trước đó.
Trong đó, Ngành Kiến trúc trong năm 2022 có 397 thí sinh nhập học/ 500 chỉ tiêu, năm liền kề trước đó ngành này có 425 thí sinh nhập học: Ngành Công nghệ thông tin có 256 thí sinh nhập học/ 200 chỉ tiêu, năm liền kề trước đó ngành này có 264 thí sinh nhập học.
Tương tự, ngành Kinh tế xây dựng có 117 thí sinh nhập học/ 100 chỉ tiêu, năm liền kề trước đó ngành này có 243 thí sinh nhập học; Ngành Quản lý xây dựng có 102 thí sinh nhập học/ 100 chỉ tiêu, năm liền kề trước đó ngành này có 305 thí sinh nhập học.
Trong năm 2022 cũng ghi nhận tại Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, một số chuyên ngành mới, lượng thí sinh nhập học được ghi nhận là cao hơn so với chỉ tiêu. Cụ thể, chuyên ngành Kinh tế đầu tư có 54 thí sinh nhập học/ 50 chỉ tiêu; chuyên ngành Kinh tế phát triển có 60 thí sinh nhập học/ 50 chỉ tiêu; chuyên ngành Quản lý vận tải và Logistic có 53 thí sinh nhập học/ 50 chỉ tiêu.
Trong năm 2023, chỉ tiêu của trường đại học này không thay đổi, giữ ở mức 2.280 chỉ tiêu bằng với năm 2022.
Thống kê về số chỉ tiêu và lượng sinh viên nhập học tại Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội qua các năm:
Năm | 2023 | 2022 | 2021 | 2020 | 2019 | 2018 |
Tổng chỉ tiêu | 2.280 | 2.280 | 2.180 | 2.180 | 2.180 | 2.180 |
SV nhập học | - | 2.712 | 3.264 | 2.371 | 2.212 | 2.015 |
Quy mô đào tạo | 13.904 | 12.887 | 10.411 | 11.455 | - | - |
Đáng chú ý, theo số liệu nêu trong đề án tuyển sinh của các năm có thể thấy, dù chỉ tiêu của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội không có nhiều biến động qua từng năm, tuy nhiên quy mô đào tạo của trường này thống kê đang có mức tăng dần trong 3 năm gần đây.
Cụ thể, trong năm 2020, đối với đào tạo đại học chính quy, trường này có tổng 11.455 người học ở cả 2 khối ngành. Trong khi đó, năm 2021, quy mô đào tạo đại học chính quy của trường này có giảm hơn, ở mức 10.411 người học ở tất cả các khối ngành.
Tuy nhiên, ở năm sau đó là năm 2022, quy mô đào tạo đối với đại học chính quy đã vượt lên con số 12.887 người học ở tất cả các khối ngành. Còn trong năm 2023, dự kiến quy mô đào tạo đại học chính quy của trường này sẽ là 13.904 người học ở tất cả các khối ngành.
Tương ứng với các tỷ lệ nói trên, theo ghi nhận của phóng viên trong báo cáo ba công khai về điều kiện cơ sở vật chất của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội qua các năm có thể thấy, tại bản công khai về thông tin diện tích đất, tổng diện tích sàn xây dựng của cơ sở này qua các năm phóng viên nhận thấy tỷ lệ về diện tích đất/ sinh viên cũng đã có sự thay đổi.
Bảng so sánh theo các năm học giữa tỷ lệ diện tích sàn/ sinh viên và diện tích đất/ sinh viên:
Năm học | 2021 - 2022 | 2020 - 2021 | 2019 - 2020 | 2018 - 2019 |
Tỷ lệ diện tích đất/ sinh viên | 1.914 | 1.914 | 3.89 | 3.89 |
Tỷ lệ diện tích sàn/ sinh viên | 4.55 | 4.55 | 6.75 | 6.53 |
Trong đó, tại năm học 2018 - 2019 trường này có tỷ lệ diện tích đất/ sinh viên là 3,89 và tỷ lệ diện tích sàn/ sinh viên là 6,53. Trong khi đó, ở năm học 2019 - 2020 tỷ lệ về diện tích đất/ sinh viên vẫn giữ nguyên ở mức 3,89, tuy nhiên tỷ lệ về diện tích sàn/ sinh viên đã có sự điều chỉnh tăng lên ở mức 6,75.
Đến năm học 2020 - 2021, các con số thống kê cho thấy sự sụt giảm. Trong đó, tỷ lệ diện tích đất/ sinh viên xuống ở mức 1.914, còn tỷ lệ diện tích sàn/ sinh viên giảm xuống mức 4.55. Con số này duy trì ổn định qua năm học tiếp theo là năm học 2021 - 2022 khi ở cùng một mức tỷ lệ.