Tỷ lệ giảng viên trình độ TS chưa đạt chuẩn, Trường ĐH Hải Phòng làm gì để nâng lên?

19/08/2025 06:48
LÃ TIẾN
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Trường Đại học Hải Phòng đạt nhiều kết quả trong nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đảm bảo chất lượng đào tạo và thu hút sinh viên chính quy.

Trường Đại học Hải Phòng được thành lập theo Quyết định số 60/2004/QĐ-TTg ngày 09/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở đổi tên Trường Đại học Sư phạm Hải Phòng (thành lập theo Quyết định số 48/2000/QĐ-TTg ngày 20 tháng 4 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ).

Theo thông tin giới thiệu trên website, sứ mạng của trường là đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển của thành phố Hải Phòng, vùng Duyên hải Bắc Bộ và cả nước.

Hiện, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hiên là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường; Phó giáo sư, Tiến sĩ Bùi Xuân Hải là Phó Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng nhà trường.

gdvn-dhhp-ky-niem-33-3985.jpg
Trường Đại học Hải Phòng có trụ sở chính tại số 171 Phan Đăng Lưu, phường Phú Liễn, Hải Phòng. Ảnh: LT

Tỷ lệ giảng viên trình độ tiến sĩ tăng, nhưng vẫn chưa đạt 40%

Theo Báo cáo thường niên năm 2025, thống kê đội ngũ giảng viên, viên chức quản lý và nhân viên tại Báo cáo thường niên năm 2025 của Trường Đại học Hải Phòng cho thấy: tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của Nhà trường năm 2025 đạt 31,74% (tăng 5,11% so với năm 2024).

Mặc dù tỷ lệ này có tăng, tuy nhiên là cơ sở giáo dục có đào tạo tiến sĩ, nhà trường cần quyết liệt, nỗ lực, bứt phá để đáp ứng được tiêu chuẩn của Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chuẩn cơ sở giáo dục đại học yêu cầu tỷ lệ tiến sĩ tối thiểu là 40%.

Tiêu chí 2.3. Tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ:

a) Không thấp hơn 20% và từ năm 2030 không thấp hơn 30% đối với cơ sở giáo dục đại học không đào tạo tiến sĩ; không thấp hơn 5% và từ năm 2030 không thấp hơn 10% đối với các trường đào tạo ngành đặc thù không đào tạo tiến sĩ;

b) Không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ; không thấp hơn 10% và từ năm 2030 không thấp hơn 15% đối với các trường đào tạo ngành đặc thù có đào tạo tiến sĩ.

Bên cạnh đó, trong 419 giảng viên cơ hữu của trường hiện nay có 19 giảng viên chức danh phó giáo sư và 2 giảng viên chức danh giáo sư. Nhưng, một số ngành đào tạo của nhà trường không có giáo sư, phó giáo sư nào như: Dịch vụ xã hội; Du lịch, khách sạn; Kiến trúc và xây dựng.

dhhp-1.jpg
Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của trường mặc dù có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của Thông tư 01 đối với cơ sở giáo dục có đào tạo tiến sĩ.

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó giáo sư, Tiến sĩ Bùi Xuân Hải - Hiệu trưởng Trường Đại học Hải Phòng cho biết: Việc thu hút nhà giáo có trình độ cao trong độ tuổi lao động, đặc biệt là nhà giáo có chức danh giáo sư, phó giáo sư trong lĩnh vực: Dịch vụ xã hội; Du lịch, khách sạn; Kiến trúc và xây dựng công tác tại Trường Đại học Hải Phòng gặp một số khó khăn. Việc này có thể hiểu là do các ngành đào tạo mũi nhọn của thành phố hiện đang tập trung vào những lĩnh vực: công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ cảng biển logistics, du lịch - thương mại, công nghệ thông tin và các ngành ngôn ngữ Hàn Quốc, Nhật Bản.

Bên cạnh đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các trường đại học trong việc thu hút, giữ chân các giảng viên, nhà nghiên cứu có trình độ, học hàm, học vị cao. Một số lĩnh vực, đặc biệt là những ngành đặc thù như du lịch, ngoại ngữ …. thiếu giáo sư, phó giáo sư đầu ngành.

Để giải quyết bài toán nâng tỷ lệ giảng viên trình độ cao trong độ tuổi lao động, thầy Hải cho biết thêm, nhà trường đang triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp để xây dựng chế độ, chính sách ưu đãi, môi trường làm việc chuyên nghiệp, tạo cơ hội cho giảng viên cống hiến và phát triển. Hàng năm, nhà trường giao chỉ tiêu, nhiệm vụ đi học nghiên cứu sinh đối với các giảng viên trẻ trong độ tuổi học tập nâng cao trình độ chuyên môn.

Hiện nay, Nhà trường đang triển khai mạnh mẽ các chính sách thu hút và giữ chân giảng viên có trình độ cao bên cạnh sự quan tâm, hỗ trợ của Ban Thường vụ Thành ủy, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng. Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TU, ngày 10/4/2024 về "Đổi mới và phát triển Trường Đại học Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045"; Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố ký Quyết định số 1869/QĐ-UBND, ngày 05/6/2024, phê duyệt Đề án "Đổi mới và phát triển Trường Đại học Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045"; Hội đồng nhân dân thành phố ban hành Nghị quyết số 20/2024/NQ-HĐND ngày 06/12/2024 về chính sách hỗ trợ đào tạo, thu hút giảng viên trình độ cao cho Trường Đại học Hải Phòng giai đoạn 2025 - 2030.

Những quyết sách quan trọng được phê duyệt tạo tiền đề chiến lược trong việc định hướng không gian phát triển nhà trường, đặc biệt chính sách hỗ trợ đào tạo, thu hút giảng viên trình độ cao của thành phố tạo cơ hội cho những nhà nghiên cứu, giảng viên có trình độ cao, tâm huyết về công tác tại trường.

dhhp-2.jpg
Các giảng viên nhà trường tham gia Hội thảo khoa học "Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn và ngoại ngữ cho cán bộ, giảng viên Trường Đại học Hải Phòng". Ảnh: website nhà trường

Đồng thời, Trường Đại học Hải Phòng cũng xây dựng các chế độ ưu đãi đối với nhà giáo trình độ Tiến sĩ đạt chức danh Phó giáo sư, chính sách hỗ trợ nhà giáo học tập nâng cao trình độ chuyên môn, thu hút các nhà giáo có trình độ chuyên môn cao về công tác tại trường.

Để vừa thu hút, vừa giữ chân được các nhà giáo có trình độ cao, bên cạnh việc xây dựng chế độ đãi ngộ xứng đáng, hấp dẫn Trường Đại học Hải Phòng luôn chú trọng xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, thân thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà giáo phát huy được vai trò của nhà nghiên cứu khoa học, tham gia, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.

Tại bảng Danh mục chương trình đào tạo được kiểm định thuộc phần 2 mục IV trong Báo cáo thường niên năm 2025, nhà trường thông tin đã kiểm định 5 chương trình đào tạo bao gồm: Giáo dục mầm non, Giáo dục tiểu học, Sư phạm Ngữ văn, Sư phạm Tiếng Anh, Sư phạm Toán.

dhhp-3.jpg
Các chương trình đào tạo đã được kiểm định tại Trường Đại học Hải Phòng được liệt kê trong Báo cáo thường niên năm 2025. Ảnh chụp màn hình

Tính đến thời điểm hiện tại tổng số chương trình đào tạo nhà trường đã kiểm định là 8 chương trình. Ngoài 5 chương trình trên còn 3 chương trình khác bao gồm: Công nghệ thông tin; Công nghệ kỹ thuật điện, điện tử; Kế toán doanh nghiệp.

Kế hoạch kiểm định của nhà trường trong thời gian tới là thực hiện việc rà soát các chương trình đào tạo đủ điều kiện để kiểm định. Đồng thời tự đánh giá từ 5 đến 7 chương trình đào tạo các ngành.

Lãnh đạo nhà trường đã và đang thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, đột phá theo tinh thần Nghị quyết 12 của Ban Thường vụ Thành ủy về đổi mới và phát triển Trường Đại học Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để vừa nâng cao chất lượng đào tạo, vừa nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đạt chất lượng, đúng thời hạn.

Tỷ lệ nhập học sinh viên hệ chính quy trung bình 3 năm gần nhất đạt 84,89%, riêng trong năm 2024 đạt 91,48%, phản ánh những quyết sách quan trọng về phát triển đội ngũ, hiện đại hóa cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng đào tạo đã nâng cao vị thế của Nhà trường trong công tác đào tạo.

Trong 3 năm gần nhất, sinh viên chính quy chiếm tỷ lệ 92,53% (11.548/12.480).Tính riêng 3 năm gần nhất: năm 2024 đạt 91,48%, năm 2023 đạt 84,97%, năm 2022 đạt 78,20%.

Năm 2022 2023 2024
Số lượng nhập học mới 3649 3528 4371
Chỉ tiêu tuyển sinh theo kế hoạch từng năm 4666 4152 4778
Tỷ lệ nhập học trung bình 78,15% 84,97% 91,48%

Hiệu trưởng lý giải về số sinh viên tốt nghiệp đúng hạn là 39,6% trong báo cáo thường niên

Trong bảng đánh giá về kết quả tuyển sinh và đào tạo, tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn (trong thời gian tiêu chuẩn) của trường năm 2025 là 39,6% (năm 2024 là 52,3%). Trong khi đó theo tiêu chuẩn 5.3, Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT ngày 05/02/2024 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chuẩn cơ sở giáo dục đại học: Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn không thấp hơn 40%.

Liên quan đến nội dung này, Hiệu trưởng Trường Đại học Hải Phòng chia sẻ nguyên nhân tỷ lệ này thấp là do thời điểm báo cáo sớm hơn một số đợt xét tốt nghiệp của sinh viên.

Đối với sinh viên đại học chính quy tuyển sinh tháng 8 hàng năm, sinh viên nhập học vào tháng 9 hàng năm, vì vậy thời điểm để xác định sinh viên tốt nghiệp đúng hạn là cuối tháng 9, đầu tháng 10 hàng năm.

Thời điểm nhà trường công bố báo cáo thường niên là 30/6/2025 trước 3-4 tháng so với thời gian tiêu chuẩn nhưng tỷ lệ tốt nghiệp của trường đã là 39,6%. Ngày 1/8/2025, nhà trường tổ chức xét tốt nghiệp đợt 4 (tháng 7/2025) cho 1.003 sinh viên, trong đó có 911 sinh viên khóa 22 nâng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn lên 47,3%.

Đồng thời theo kế hoạch nhà trường sẽ tổ chức 1 đợt xét tốt nghiệp vào tháng 9 năm 2025. Như vậy tính đến cuối tháng 9, đầu tháng 10 (thời gian chuẩn) tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn của trường cao hơn so với chuẩn thông tư 01/2024/TT-BGDĐT và có thể cao hơn so với năm 2024.

Lãnh đạo nhà trường đã và đang thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, đột phá theo tinh thần Nghị quyết 12 của Ban Thường vụ Thành ủy về đổi mới và phát triển Trường Đại học Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để vừa nâng cao chất lượng đào tạo, vừa nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đạt chất lượng, đúng thời hạn.

Bên cạnh đó, theo bảng chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo năm 2025, tỷ lệ nhập học trung bình 3 năm của cả hệ chính quy, sau đại học, vừa làm vừa học của trường có giảm so với năm 2024. Trong đó, tỷ lệ nhập học hệ vừa làm vừa học giảm nhiều nhất (từ 128,72% năm 2021 giảm xuống còn 17,86% năm 2024).

Tỷ lệ nhập học trung bình 3 năm theo hệ thống Hemis (Toàn trường): 72.50%.

Với học viên hệ đào tạo sau đại học:

Năm
2021
2022
2023
2024
Số lượng nhập học mới
290
204
150
216
Chỉ tiêu tuyển sinh theo kế hoạch từng năm
301
335
347
380
Tỷ lệ nhập học trung bình (T)
66,82%
66,82%
66,82%
53,66%

Tỉ lệ nhập học hệ đào tạo sau đại học duy trì quanh mức 66% trong các năm 2021-2023, nhưng giảm xuống còn 53.66% trong năm 2024, cho thấy nhu cầu người học giảm mạnh.

Riêng nhóm vừa làm vừa học có nhiều biến động trong tuyển sinh, nhập học:

Năm
2021
2022
2023
2024
Số lượng nhập học mới
4494
0
1
361
Chỉ tiêu tuyển sinh theo kế hoạch từng năm
1164
980
1191
675
Tỷ lệ nhập học trung bình (T)
128,72%
0%
0%
17,86%

Năm 2021, tỷ lệ nhập học của nhóm vừa làm vừa học vượt quá 100%, cho thấy có khả năng tuyển sinh vượt kế hoạch hoặc các số liệu đặc biệt trong năm này. Tuy nhiên, các năm 2022 và 2023 có số liệu rất thấp hoặc bằng 0, cho thấy khó khăn trong tuyển sinh hoặc thay đổi tổ chức tiêu chí.

Sự sụt giảm tỷ lệ nhập học hệ vừa làm vừa học tại năm báo cáo 2025 thấp hơn so với năm báo cáo 2024 là vì số học viên vừa làm vừa học nhập học năm 2021 rất lớn (4494) và đến năm 2025 không còn được tính vào số liệu báo cáo 2025, trong khi 2 năm 2022, 2023 hầu như không tuyển được bất kỳ một sinh viên nào.

LÃ TIẾN