Ước mơ lớp học nơi đầu gió Nậm Chà

15/12/2018 06:16
Trần Phương
(GDVN) - Gió mùa rít qua từng kẽ nứa, cô và trò cùng ê a con chữ và mơ về một ngày mai tươi sáng. Ngày mai ấy có lớp học không có tiếng rít của gió về…

Lũ trôi cầu rồi!

Ở nơi cách Hà Nội hơn 500km, thầy cô, bà con và hơn 300 em học sinh trường Mầm non Nậm Chà (xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhùn, Lai Châu) mong mỏi từng ngày được học tập, vui chơi dưới ngôi trường có nền bê tông, có đầy đủ bàn ghế, tường kín gió và sân chơi…

Nếu như Nậm Nhùn, địa danh gợi nhớ đến một trong những vùng khó khăn nhất của tỉnh Lai châu thì Nậm Chà gợi đến vùng khó khăn nhất của Nậm Nhùn.

Cầu ở Nậm Chà một năm được dựng lại 3 - 4 lần bởi cứ vào mùa lũ, cầu lại cuốn trôi mất.
Cầu ở Nậm Chà một năm được dựng lại 3 - 4 lần bởi cứ vào mùa lũ, cầu lại cuốn trôi mất.

Bởi đến được Nậm Chà, phải ngược dòng sông Đà hơn 2 tiếng lênh đênh trên sông nước. Mùa mưa đường vào Nậm Chà dường như không thể.

Vào đến Nậm Chà để đến được Huổi Lính, ngôi trường nơi đầu mỏm gió ấy phải đi qua hai cây cầu tạm bằng nứa, tre ẽo uột, ọp ẹp. Những chiếc cầu gép bằng những cây luồn run lên bần bật như đang phải gồng mình quá sức.

“Ngay trước ở đây cũng có cầu, nhưng nước cuốn trôi mất rồi. Đây là chiếc cầu bằng tre được dân bản dựng lại lần thứ 3! Cứ lũ lên lại trôi, mà đó là đường đi chính và dễ đi nhất của bà con trong bản”, cô Đinh Thị Kim Dung – Hiệu trưởng trường mầm non Nậm Chà kể.

Tuy là nữ nhi nhưng các cô giáo vùng cao quả là những lái xe đại tài.

Những đoạn leo đoạn đèo dốc 45 độ không làm khó được cô giáo. Cái khó của các cô chính là mùa đông lạnh giá và những ngày mưa trắng trời, đường về bản xa xăm và mù mịt nơi thâm sơn cùng cốc này.

Đường đến trường lẩn khuất trong mây.
Đường đến trường lẩn khuất trong mây. 

Chưa đầy 5 km từ trung tâm xã vào đến  Huổi Lính nhưng cả đoàn phải mất 1 giờ đồng hồ để vào đến nơi. Ngày nào cũng vậy, nắng cũng như mưa, sương muối hay giá lạnh, cô giáo trẻ Vàng Thị Máy và bao thế hệ giáo viên khác đều cứ lầm lũi bám đá vượt dốc treo leo để vào được đến điểm trường.

Lớp học bên bếp lửa

Điểm trường Huổi Lính nằm lọt thỏm trong thung lũng quanh năm phủ mờ sương. Lớp học ở Huổi Lính là mấy gian nhà nứa lụp xụp đan phên.

Lớp học là Căn phòng phòng trống hếch trống hoác, chẳng có đồ chơi, vỏn vẹn hơn chục vỏ hộp sữa vẫn giữ nguyên ống mút cắm.

Đây là những món đồ chơi của các em nhỏ ở Huổi Lính, đồ chơi ấy được tận dụng lại từ món quà của các nhà thiện nguyện đến thăm.

Thấy người lạ, lũ trẻ ngơ ngác, nửa muốn gần gũi, nửa như sợ hãi và đầy xa lạ. Sân chơi của các bé là toàn đất đỏ, bụi mù. Bên ngoài đó, một vài em đang chân trần chơi đùa trên nền đất, tất cả chúng đều nhem nhuốc, quần áo bắt bụi từ đường đến trường.

Cô giáo Vàng Thị Mảy và học trò thân thương. Trong cái khó, cái nghèo lời ca tiếng hát vẫn cất véo von trên non cao.
Cô giáo Vàng Thị Mảy và học trò thân thương. Trong cái khó, cái nghèo lời ca tiếng hát vẫn cất véo von trên non cao.

Những đứa trẻ đang nghịch chơi ấy bẽn lẽn, lấp ló sau lưng nhau, rồi chạy ù ra suối. Chúng lấm lem, làn da đỏ xỉn như chính màu của dòng sông, màu đất nơi đó.

Nhìn học trò, các thầy cô giáo kể, ở đây phụ nữ  đa phần không biết nói tiếng phổ thông, trẻ đến trường khổ lắm.

Có phụ huynh đưa các em đi học phải băng qua đường rừng núi, nhà cách trường hàng mấy km.

Mùa nắng đi còn dễ, mùa lũ lên những con nước như muốn nuốt trửng người đi đường...

Mùa đông cũng như mùa hè, các em chỉ mặc một bộ quần áo, thậm chí thời tiết xuống 10 độ, vẫn đồng phục ấy, vẫn chân đất đến trường, ngồi học mà run lên bần bật, chân tay tím tái.

Thương trò, lớp học vẫn diễn ra quanh bếp lửa các cô đốt lửa cho các em ngồi sưởi.

Giờ nghỉ trưa.
Giờ nghỉ trưa.

Lặng nhìn về phía đồ chơi bằng tre tự làm cho học sinh, cô Hiệu trưởng kể: “Mình chỉ ước có một cái sân xi măng cho các con chơi.

Trời mưa lầy lội lắm, các con không chơi được, đi vào lớp mang theo cả bùn đất. Chưa kể, nơi đây thường xuyên có gió xoáy, tung bụi mù mịt cả trường, ngập lớp”.

Theo chân cô đến nhà ăn của trường, lòng chúng tôi quặn thắt, cổ họng nghẹn lại khi thấy nó giống túp lều hơn là phòng ăn.

Căn phòng được dựng bằng liếp tre sơ sài, mái nhà phủ tấm bạt rộng, chỉ đủ che nắng, hễ trời mưa là dột.

 Đồ nấu bếp chỉ có 2 chiếc nồi, không có đồ đựng thức ăn, nấu xong đổ vào xô để chia cho các em. Vậy mà, nơi đây là chỗ ăn của bọn trẻ hàng ngày từ nhiều năm nay.

Cô Dung nói đây là nơi “khang trang” nhất so với 6 điểm lẻ còn lại, điểm trường xa nhất cách đây 7 – 10km.

Những đứa trẻ ở Huổi Lính.
Những đứa trẻ ở Huổi Lính.

Trong số đó có 4 điểm phòng học vẫn là nền đất và một điểm chỉ có tre lứa đan thành phên quây lại, mùa mưa lầy lội và trời nắng các cô phải vẩy nước xuống nền trước khi dạy cho đỡ bụi.

Khổ, vất vả là thế nhưng vì thương học trò, muốn các em biết tới con chữ nên các thầy cô lại cố gắng

Hiện toàn xã Nậm Chà có 349 học sinh từ độ tuổi 3 – 5, chủ yếu là dân tộc Dao, H’Mông, Cống.

Mỗi học sinh được Nhà nước trợ cấp 120 nghìn đồng/ tháng, chẳng đủ nên phụ huynh đóng góp thêm gạo, củi và mang bát thìa cho các con.

Ước mơ lớp học nơi đầu gió Nậm Chà ảnh 6Cô giáo Tuyết trên đỉnh Pà Vầy Sủ

“Trẻ ở đây tự lập lắm, chẳng cần các cô phải bón, đút, ép ăn như dưới xuôi. Thứ 7, chủ nhật nào bố mẹ cũng đến xin cô cho con nghỉ học để lên nương. Như trường hợp của em Chảo Tham Phú (5 tuổi, người dân tộc Dao) hàng ngày vẫn theo anh chị đến trường mà không cần bố mẹ đưa đón.

Có lần tôi đến bản vận động Phú đến trường, thấy cậu một tay cầm vốc cơm, tay kia là mấy hạt muối trắng, ăn ngon lành”, cô Dung nhớ lại.

Trước kia, cơm ở Huổi Lính chan nước lã là chuyện thường tình, trẻ đến trường chẳng mấy khi bụng được lửng lửng cơm.

Từ ngày được Nhà nước hỗ trợ 120 nghìn đồng/ tháng, nhà trường tổ chức ăn bán trú, bữa có thịt, có cá, đậu... Từ đó, học trò ở Huổi Lính thích đến trường hơn hẳn.

Khó khăn là vậy, nhưng bao năm nay các cô vẫn “cắm dùi cõng chữ lên non”.

Điểm trường ở Huổi Lính.
Điểm trường ở Huổi Lính.

Đặc biệt là sự thiếu thốn tình cảm gia đình, một năm về thăm gia đình 2 lần, nghỉ hè và nghỉ Tết hầu hết các cô có con nhỏ phải gửi ở nhà cho ông bà chăm.

Nhiều cô lúc chia tay con, con chạy theo, nước mắt ngắn dài khóc đòi mẹ: “Mẹ ở nhà với con!”, “Mẹ đừng đi”… mà nghẹn lại không đặng đi nghĩ thương con.

Có lẽ chính vì sự vất vả, thiếu thốn tình cảm ấy mà các cô thương học trò như con.

Hình ảnh cô giáo đút ăn ân cần cho một học sinh khuyết tật 3 tuổi không tự vận động, vẫn ám ảnh những người đến với Huổi Lính một lần.

Thế nhưng, những ánh mắt thơ ngây giữa ngây giữa đại ngàn nắng gió cứ thế lớn lên trong vòng tay đầy tình thương của các cô giáo như thế.

Lúc chia tay, cô Dung nắm chặt tay chúng tôi tha thiết chia sẻ: “Mong muốn thì nhiều lắm, nhưng giờ tôi chỉ có ước mơ có sân xi măng để vui chơi, có bàn ghế cho các cháu học, có căn phòng trụ được những ngày mưa, gió lạnh”.

Trần Phương