“Bỏ tiền ra là phải tính đến hiệu quả”

02/01/2017 07:00
Thùy Linh
(GDVN) - Theo Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, số trường đại học ở Việt Nam không lớn, số sinh viên/đầu dân không đông nhưng nhiều trường chất lượng kém, hữu sinh vô dưỡng.

Các trường đại học cần phải chuyển sang tự chủ 

Phát biểu tại hội nghị tổng kết đề án đào tạo theo chương trình tiên tiến tại một số trường đại học giai đoạn 2006-2016 diễn ra ngày 30/12, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho rằng, không nên dành quá nhiều thời gian để nhìn lại quá khứ đã làm được gì mà mà là nhìn quá khứ và tập trung trí tuệ bàn về tương lai. 

Bộ trưởng nhấn mạnh, đề án này được đưa ra và triển khai trong bối cảnh nước ta còn hạn chế nên không thể dàn trải cho tất cả các ngành, trường mà ưu tiên cho những ngành, chuyên ngành cần thiết cho nền kinh tế đất nước.

Đây cũng là những ngành có nền tảng, đã được đầu tư theo hướng vươn cao.

Do vậy, Bộ trưởng yêu cầu các ban, đơn vị đánh giá chương trình một cách khách quan, thẳng thắn nhằm rút kinh nghiệm cho giai đoạn tới.

Theo ông Nhạ, mục tiêu đào tạo và tính bền vững của cơ sở đào tạo là hai vấn đề cần được tập trung đánh giá.

Tư lệnh ngành giáo dục cũng nhấn mạnh vấn đề tài chính, Nhà nước đã cấp lượng tiền không nhỏ khoảng 54% tổng kinh phí của chương trình.

Bộ trưởng cho rằng có nhiều cách để tiết kiệm chi phí từ ngân sách như thu hút người tài, chuyên gia nước ngoài thay vì bỏ tiền nhà nước để đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ.

Chúng ta phải tính hết, bỏ tiền ra là phải tính đến hiệu quả. Những câu hỏi này phải được làm rõ và có sức thuyết phục, chúng ta mới có cơ sở để xây dựng giai đoạn hai. Nếu không rõ, tôi cũng không dám trình giai đoạn hai”, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ phát biểu.

Vị tư lệnh ngành thông tin, chỉ vài trường tư thục có ngành đào tạo tốt, phần lớn đang khó khăn về tuyển sinh (Ảnh: Xuân Trung)
Vị tư lệnh ngành thông tin, chỉ vài trường tư thục có ngành đào tạo tốt, phần lớn đang khó khăn về tuyển sinh (Ảnh: Xuân Trung)

Trong thời gian tới, nước ta sẽ tái cơ cấu mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Vai trò của đại học trở nên to lớn tuy nhiên so với các cấp, bậc học khác thì giáo dục đại học lại đang là “vùng trũng nhất của giáo dục Việt Nam”. 

Do vậy, người đứng đầu ngành giáo dục đang nhận áp lực bởi nghịch lý giữa yêu cầu rất cao với điều kiện cung ứng còn chưa đủ.

Hiện tại, cả nước có 271 trường đại học, học viện và các cơ sở đào tạo nhưng mặt bằng chất lượng chưa đảm bảo.

Bộ trưởng khẳng định số lượng trường đại học của Việt Nam không nhiều,  số sinh viên/đầu dân không đông nhưng điểm yếu là nhiều trường chất lượng đào tạo kém, hữu sinh vô dưỡng.

Vị tư lệnh ngành thông tin, chỉ vài trường tư thục có ngành đào tạo tốt, phần lớn đang khó khăn về tuyển sinh.

Trong số gần 200 trường Đại học công lập, 28 trường Đại học địa phương đa phần được nâng cấp từ Cao đẳng nên khó trông cậy được chất lượng.

Tên hoành tráng lắm, có vị còn đặt tên Tây nhưng điều kiện đảm bảo chất lượng vô cùng khó khăn. Thậm chí, Thủ tướng đã nói rồi, cũng khó ra hồn”, ông Nhạ nhấn mạnh.

“Bỏ tiền ra là phải tính đến hiệu quả” ảnh 2

Cần phân biệt giữa tự chủ tài chính và "tự lo" về tài chính

(GDVN) - PGS.Trần Quốc Toản khẳng định: “Sẽ là sai lầm khi coi cơ chế tự chủ về tài chính của nhà trường đồng nhất với cơ chế “tự lo” về tài chính”.

Do đó, Bộ trưởng cho rằng, các trường đại học cần phải chuyển sang tự chủ, chuyển sang hướng dịch vụ để tăng tính cạnh tranh. 

"Đã là dịch vụ là phải thị trường, thị trường thì phải cạnh tranh.

Hơn bao giờ hết, thời điểm này, các hiệu trưởng, chủ tịch hội đồng trường, chủ tịch hội đồng quản trị trường sẽ gặp nhiều khó khăn, phải đối mặt với áp lực cạnh tranh khi nhà nước dần dần không bao cấp nữa", ông Nhạ nhấn mạnh. 

Tới đây, Bộ GD&ĐT sẽ chỉ đạo các cơ sở đại học công lập và ngoài công lập cạnh tranh bình đẳng, thay đổi theo hướng cấp phát theo đặt hàng, nghĩa là ai có sức mạnh thì cạnh tranh.

Song, quá trình đó phải đảm bảo tính bình đẳng, tránh trường hợp trường tư thục có ngành tốt nhưng không được hỗ trợ, lại bao cấp những ngành, trường công lập không cần thiết.

Những ngành khoa học cơ bản cũng cần được chú trọng đầu tư nhưng phải thay đổi phương thức để đảm bảo chất lượng chứ không phải chạy theo số lượng. 

Công tác dự báo định hướng nghề nghiệp còn mờ nhạt

Cũng tại hội nghị, Bộ trưởng cho rằng, vai trò dự báo định hướng nghề nghiệp của các trường đại học hiện nay còn rất hạn chế.

Việc đào tạo cơ bản xuất phát từ năng lực hiện có rồi đi tìm đối tác còn thị trường trường thế nào, dự báo ra sao thì rất mờ nhạt.

Ông Nhạ cho biết, để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho việc tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, tới đây, Bộ GD&ĐT đang tiến hành xây dựng đề án tiếp nối đề án thí điểm chương trình đào tạo tiên tiến 10 năm qua.

Tuy nhiên, mục tiêu tới đây là việc đào tạo phải phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động được dự báo.

Theo ông Nhạ, đầu tiên cần phải quy hoạch các ngành theo hướng bám sát thị trường lao động, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đi theo chiều sâu.

“Bỏ tiền ra là phải tính đến hiệu quả” ảnh 3

Đổi mới cơ chế quản trị đại học là bước đột phá cần thiết

(GDVN) - Tự chủ đại học là một chủ trương lớn, nhiều triển vọng nhằm giúp đổi mới quản trị đại học theo hướng năng động và hiệu quả theo xu thế của thế giới.

"Những nhóm ngành như kế toán, khoa học xã hội và nhân văn rất cần nhưng mức độ vừa phải.

Những nhóm ngành về công nghệ, kỹ thuật , khoa học sức khỏe, nông nghiệp, công nghiệp rất ưu tiên" - ông Nhạ chỉ rõ.

Đặc biệt, Bộ trưởng khẳng định đã tới thời điểm mọi người phải thẳng thắn, bàn kỹ làm thể nào để cải thiện chất lượng. Đây là câu hỏi mà hiệu trưởng, giám đốc các đại học, học viện phải trả lời.

Tôi có thể thay mặt các hiệu trưởng trả lời trước Quốc hội chứ không thể thay mặt hiệu trưởng trả lời trước xã hội”, Bộ trưởng Nhạ khẳng định.

Nhiệm vụ trước mắt của giáo dục đại học là rà soát nhu cầu kinh tế theo hướng tăng cường các ngành mũi nhọn, bám sát cuộc cách mạng công nghệ, 8 nhóm ngành di chuyển ASEAN để ưu tiên đầu tư.

Ông đề xuất chọn ra từ 35 ngành đào tạo chương trình tiên tiến. Đương nhiên, nhiều ngành không nằm trong 35 ngành này mà đáp ứng yêu cầu vẫn được đưa vào.

Đối tượng tham gia bao gồm cả trường đại học công lập và tư thục và phương thức đầu tư của giai đoạn tới sẽ theo hướng hợp đồng giao nhiệm vụ, ai có sức mạnh thì cạnh tranh để làm sao Nhà nước bỏ ra lượng tiền nhỏ nhất nhưng thu kết quả tốt nhất. 

Bên cạnh đó, việc đầu tư phải diễn ra đồng bộ, tránh kiểu xôi đỗ. Nghĩa là, một cơ sở đào tạo mà có nhiều chương trình tiên tiến hoạt động hiệu quả sẽ được xây dựng thành đẳng cấp.

Người đứng đầu ngành giáo dục cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tự chủ đại học trong thời gian tới. Tự chủ phải gắn với trách nhiệm giải trình, kiểm định, nhưng công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học hiện nay còn nhiều bất cập.

Tổng tư lệnh ngành giáo dục mong muốn các thầy cô, đại biểu tham dự hội nghị kiến nghị với Bộ GD&ĐT về hướng đi sắp tới cho giáo dục đại học.

Không nhất thiết câu nệ, hình thức phải trao đổi thẳng thắn thật những gì chúng ta suy nghĩ.

Tôi cũng muốn lắng nghe các vị đại biểu từ đơn vị sử dụng lao động, chuyên gia việc làm, phản biện thẳng thắn”, Bộ trưởng khuyến khích đại biểu.

Đề án đào tạo theo chương trình tiên tiến tại một số trường Đại học Việt Nam giai đoạn 2008-2015 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2008. Đến năm 2012, Đề án đã có 23 trường đại học triển khai thực hiện 35 chương trình đào tạo của 22 trường đại học trên thế giới.

Đến nay, cả Đề án đã tuyển được 13.270 sinh viên, trong đó có 69 sinh viên các dân tộc ít người. Đề án đã mời tổng cộng 1.833 lượt giảng viên nước ngoài đến giảng dạy, trong đó 1.389 giảng viên đến dạy các học phần thuộc chương trình tiên tiến và 444 giảng viên đến giảng chuyên đề.

Đến thời điểm hiện tại, các chương trình tiên tiến đã có 3.601 sinh viên tốt nghiệp, trong đó 255 sinh viên xuất sắc (7,1%), 1.307 sinh viên giỏi (34,3%) và 1.707 sinh viên khá (47,4%).

Trong số 2.561 sinh viên tốt nghiệp năm 2015 đã tìm được việc làm, có 539 sinh viên xin được học bổng đi học tiếp ở nước ngoài (449 học thạc sĩ, 90 nghiên cứu sinh); 274 sinh viên học trên đại học ở trong nước (241 học thạc sĩ, 33 nghiên cứu sinh); 123 làm giảng viên các trường đại học, cao đẳng; 104 làm việc trong các viện nghiên cứu; 269 làm việc trong các cơ cơ công lập khác; 660 làm việc trong các cơ quan liên doanh với nước ngoài; 592 làm trong các cơ quan tư nhân hoặc tự mở công ty riêng.

Tuy không được bố trí ngân sách, song giảng viên và sinh viên chương trình tiên tiến tham gia nhiều đề tài các cấp có nhiều công trình công bố trong nước và quốc tế; riêng sinh viên chương trình tiên tiến đã tham gia vào 2 đề tài cấp nhà nước, 21 đề tài cấp Bộ/Tỉnh, 13 đề tài hợp tác quốc tế, 175 đề tài cấp trường, thực hiện 409 đề tài sinh viên, tham dự 156 báo ở hội nghị, hội thảo quốc tế, là đồng tác giả của 145 công trình công bố ở nước ngoài và 192 công trình công bố trong nước.

Thùy Linh