Theo dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố, giáo dục Khoa học tự nhiên được thực hiện trong nhiều môn học, cốt lõi là các môn Cuộc sống quanh ta (lớp 1, lớp 2 và lớp 3), Tìm hiểu tự nhiên (lớp 4 và lớp 5), Khoa học tự nhiên (trung học cơ sở), Vật lý, Hóa học, Sinh học (trung học phổ thông).
Được biết, hiện nay công tác đào tạo giáo viên giảng dạy các môn khoa học tự nhiên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đã được các trường sư phạm đặc biệt chú
Trao đổi với phóng viên, Tiến sĩ Vũ Thị Hồng Hạnh - Trưởng Khoa Vật lí, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên đánh giá, dự thảo lần này kế thừa được những nội dung giáo dục đã được kiểm nghiệm trong thực tế của các chương trình trước đây.
Đó là cung cấp những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại, tăng cường thực hành và nâng cao năng lực vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống.
Muốn đổi mới thì phải bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ giáo viên (Ảnh: Báo Chính phủ) |
Đặc biệt, trong dự thảo, các môn Khoa học tự nhiên không chỉ góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung cho học sinh mà còn có sứ mệnh hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh, giúp các em có được tinh thần khách quan, tình yêu thiên nhiên, tôn trọng các quy luật của tự nhiên, từ đó biết ứng xử với tự nhiên, phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và môi trường.
Thông qua các hoạt động học tập của lĩnh vực này giúp học sinh dần hình thành và phát triển năng lực tìm hiểu và khám phá thế giới tự nhiên qua quan sát và thực nghiệm, năng lực vận dụng tổng hợp kiến thức khoa học để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Chương trình mới đòi hỏi các trường cần chia sẻ nguồn lực lẫn nhau |
Cô Hạnh cũng cho biết, để bắt kịp công cuộc đổi mới, với mục tiêu đào tạo đội ngũ giáo viên có đủ năng lực để có thể dạy chuyên sâu môn Vật lý, Hoá học hoặc Sinh học và dạy môn Khoa học tự nhiên ở bậc Trung học cơ sở, chương trình đào tạo giáo viên các môn thuộc khối khoa học tự nhiên tại Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên đã có nhiều thay đổi.
Thứ nhất, về chương trình được xây dựng có sự kết hợp và phân phối cân đối giữa các khối kiến thức chuyên ngành và khối kiến thức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Thời lượng dành cho khối kiến thức đào tạo năng lực sư phạm và thực tập, thực tế chuyên môn đề xuất chiếm khoảng 50% trong tổng số chương trình đào tạo.
Điều này giúp sinh viên tốt nghiệp có được những kiến thức và kinh nghiệm thực tế về chuyên môn, nghiệp vụ, có thể đảm nhận tốt công việc giảng dạy tại trường phổ thông.
Thứ hai, việc xây dựng chương trình đào tạo có tỷ lệ các học phần thuộc các khối kiến thức Khoa học tự nhiên hợp lý nhằm giúp đào tạo giáo viên giảng dạy Khoa học tự nhiên ở các trường phổ thông có khả năng cung cấp cho người học nền tảng kiến thức rộng về Khoa học tự nhiên.
Ví dụ, với mục tiêu đào tạo giáo viên vừa có năng lực giảng dạy Vật lý chuyên sâu, vừa có năng lực giảng dạy các môn Khoa học tự nhiên, trong chương trình đào tạo ngoài khối kiến thức cơ sở ngành và chuyên ngành Vật lý còn có thêm các học phần hoá học, sinh học, khoa học trái đất và môi trường, …
Chương trình đào tạo được thiết kế theo nguyên tắc gồm các học phần có tính liên thông cao để sinh viên có thể lựa chọn các môn học giảng dạy cho phù hợp; giảm số giờ giảng dạy lý thuyết, loại ra khỏi chương trình các môn học mang tính hàn lâm, tăng cường thực hành, thực tế, thảo luận và hoạt động nhóm, tỷ lệ giữa giờ lý thuyết và thực hành là cỡ 50:50 để người học tự chủ hơn, hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng cường năng lực thực hành và làm việc nhóm.
Thứ ba, trong quá trình thiết kế chương trình đào tạo, các học phần và chuyền đề vể dạy tích hợp Khoa học tự nhiên cũng được chú trọng nhằm giúp sinh viên tốt nghiệp ra trường có năng lực dạy học tích hợp và năng lực thiết kế các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh.
Muốn triển khai được đổi mới giáo dục thì công tác bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ giáo viên một cách có hệ thống và chuẩn hóa là vô cùng cần thiết nhưng điều này không dễ thực hiện.
Định hướng nghề nên bắt đầu từ lớp 8 |
Đề xuất cho việc này, cô Hạnh cho rằng, cần khảo sát, đánh giá lại năng lực của người giáo viên một cách chính xác, khách quan.
Đối chiếu với yêu cầu của chương trình giáo dục mới để thấy rõ cái đang cần, đang thiếu của giáo viên, từ đó xác định nội dung cần bồi dưỡng cho giáo viên và xây dựng chương trình bồi dưỡng cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn.
Hiện tại, một số trường sư phạm trọng điểm đã xây dựng hệ thống các chuyên đề bồi dưỡng với nội dung thiết thực, có giáo án, giờ dạy minh hoạ thể hiện cách thức dạy học theo hướng đổi mới và có thể tổ chức thực hiện. Đây là bước chuẩn bị quan trọng cho chương trình giáo dục phổ thông mới.
Ví dụ, các chuyên đề bồi dưỡng về dạy học tích hợp, tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phát triển chương trình nhà trường, bồi dưỡng năng lực tổ chức nghiên cứu khoa học cho học sinh.
Trong công tác bồi dưỡng và đào tạo lại, các trường sư phạm trọng điểm cần đóng vai trò chủ chốt, cử chuyên gia, giảng viên có trình độ cao tham gia bồi dưỡng để đảm bảo chất lượng bồi dưỡng giáo viên.
Tránh tình trạng giáo viên tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nhưng chỉ được nghe giảng về lý thuyết, không được thực hành hay tham dự các giờ dạy thực tế, dẫn tới không đáp ứng được yêu cầu đổi mới.