Nhìn lại lộ trình tự chủ của 23 trường đại học sau 3 năm thực hiện thí điểm Nghị quyết 77/NQ-CP, tại tọa đàm “Tự chủ đại học - Nhìn từ chính sách, pháp luật” do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức ngày 16/11, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo - Nguyễn Văn Phúc cho hay:
Sau hơn 3 năm thực hiện, những kết quả bước đầu đã rất tích cực, nội dung của thí điểm cho 23 trường của Nghị quyết 77/NQ-CP hiện nay đang được thể chế hóa trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, mà Quốc hội dự kiến thông qua vào kỳ họp lần này.
Nội dung Nghị quyết 77/NQ-CP thí điểm trên 3 mặt: tự chủ về chuyên môn, nhân sự tổ chức và tài chính, tài sản.
Về chuyên môn, các trường mở rộng tự chủ vấn đề liên quan đến đào tạo, hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học.
Sau kết quả hơn 3 năm, các chương trình đào tạo phát triển mới, chương trình chất lượng cao, chương trình tiên tiến, chương trình liên kết với nước ngoài... các trường đã chú trọng về chất lượng, quy mô đào tạo đã được điều chỉnh hợp lý, phần lớn các trường đã được kiểm định.
Với quy mô lớp học, các trường cũng đã điều chỉnh giảm để đổi mới phương pháp đào tạo, nâng cao về chất lượng.
Nghiên cứu khoa học cũng có kết quả tích cực, đặc biệt là công bố quốc tế. Khi tự chủ, các trường đã chủ động trong hoạt động nghiên cứu khoa học, sử dụng đội ngũ của mình, có cơ chế khuyến khích thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế đã tăng mạnh trong các trường tự chủ.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 77, các trường mở rộng tự chủ vấn đề liên quan đến đào tạo, hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học. (Ảnh: Thùy Linh) |
Về tự chủ tổ chức nhân sự, bộ máy, sau khi tự chủ, các trường đã tiến hành rà soát sắp xếp lại bộ máy, hoàn thiện mô hình quản trị, phần lớn các trường tự chủ đã thành lập hội đồng trường, củng cố tổ chức bộ máy bên trong cho hiệu quả. Các trường đã ban hành rất nhiều quy định nội bộ để hoàn thành tổ chức.
Những vấn đề tuyển dụng, sử dụng, trả thu nhập gắn với kết quả công việc tạo động lực bên trong đã có sự thay đổi.
Về tài chính, tài sản, các trường phải tự chủ chi thường xuyên 100%, đồng thời chi đầu tư cũng phải tự chủ với các dự án dở dang tiếp tục, nhưng bù lại các trường được tăng học phí để bù đắp.
Lúc đầu các trường cũng lo ngại về tăng học phí, nhưng đến nay tăng học phí đi liền với chất lượng, các trường cũng thu hút được người học và tự chủ tài chính tốt.
Việc tự chủ tài chính cũng giúp cho các trường có nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo, thúc đẩy nghiên cứu khoa học.
Điều quan trọng nữa là các trường cũng dành nguồn lớn để bổ sung vào quỹ học bổng, phần lớn các trường tự chủ, học bổng đã tăng nhiều dành cho các đối tượng chính sách.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, các trường cũng gặp rất nhiều vướng mắc và khó khăn.
Chia sẻ về một số khó khăn gặp phải trong quá trình triển khai tự chủ, Phó giáo sư Lê Minh Thắng, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Bách khoa Hà Nội thông tin:
Một trong vướng mắc lớn đó là hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước chưa được đồng bộ, điều này không chỉ trường Đại học Bách Khoa mà các trường đại học khác cũng nhận thấy và đã được tổng kết trong một số báo cáo về quá trình tự chủ trước đây.
Ví dụ như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công, Luật Viên chức… chưa phù hợp với nội dung Chính phủ cho phép trường tự chủ.
Vì vậy một số nội dung trường được phép tự chủ nhưng trên thực tế không thực hiện được, ví dụ như việc liên kết sử dụng tài sản của nhà trường liên kết, liên doanh để phát triển đào tạo khoa học công nghệ.
Các nguồn từ ngân sách Nhà nước như khoa học vẫn phải quyết toán theo Luật Ngân sách Nhà nước rất phức tạp, gây ra khó khăn trong quá trình thực hiện, không thể đẩy nhanh hơn được.
Ngoài ra, đối với quy định về Hội đồng trường trong Luật Giáo dục năm 2012 còn chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa phù hợp cho nên làm cho vai trò của Hội đồng trường trong việc quản trị nhà trường chưa được như kỳ vọng, mong muốn.
Vướng mắc thứ hai là nguồn ngân sách nhà trường sau tự chủ chủ yếu dựa vào học phí, việc này ảnh hưởng đến việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ sở vật chất của nhà trường.
Đặc biệt, đối với trường kỹ thuật và công nghệ như trường Đại học Bách khoa Hà Nội thì việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học và cơ sở vật chất những trang thiết bị hiện đại, đắt tiền, không thể dựa vào học phí.
Trong 2 năm đầu tự chủ, nguồn thu chủ yếu là học phí nên việc nghiên cứu khoa học và cơ sở vật chất của Nhà trường còn hạn chế.
“Đối với chính sách miễn giảm thuế dịch vụ, chúng tôi nhận thấy còn chậm triển khai, chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay chưa được triển khai.
Ngoài ra, quá trình tự chủ cũng gặp phải một số khó khăn trong bối cảnh hiện nay của giáo dục đại học là sự phát triển mạnh mẽ của các trường đại học ngoài công lập, cũng như các trường đại học trong khu vực tạo ra sự cạnh tranh giữa các trường đại học.
Đối với các trường đại học ngoài công lập thì những đầu tư về lương, cơ sở vật chất ban đầu cho cán bộ rất tốt, điều này ảnh hưởng đến sự thu hút cán bộ giỏi của trường.
Một vấn đề nữa là sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước cũng ảnh hưởng đến quá trình tự chủ của nhà trường. Mặc dù nhà trường rất cố gắng nhưng hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm nhiều đến vấn đề nghiên cứu phát triển.
Chính vì vậy, nguồn đầu tư từ doanh nghiệp tức vào nhà trường chưa được mạnh và chưa được mong muốn”, Phó giáo sư Lê Minh Thắng nhấn mạnh.
Hay với trường Đại học Mở Hà Nội - một trong những đơn vị đầu tiên từ những năm 90 của thế kỷ trước, ngay từ khi mới bắt đầu thành lập đã được Nhà nước giao cho tự chủ về chi thường xuyên thì “áp lực và khó khăn của nhà trường, phải tự cân đối, tự tìm, tự huy động nguồn vốn, nguồn lực cho nhà trường ổn định để có thể phát triển.
Và một bài toán đặt ra cho nhà trường tại thời điểm đó là nguồn lực chưa thật sự tốt, chưa thật sự mạnh mà vẫn phải đảm bảo các mục tiêu, sứ mệnh cũng như điều kiện đảm bảo chất lượng”, Phó giáo sư Nguyễn Thị Nhung, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Mở Hà Nội nói.
Phó giáo sư Nguyễn Thị Nhung, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Mở Hà Nội (Ảnh: Thùy Linh) |
Như vậy, có thể thấy, sau 3 năm triển khai Nghị quyết 77/NQ-CP cho thấy những trường được thí điểm tự chủ còn vướng quá nhiều rào cản như Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ từng nêu;
Trong đó chính sách, pháp luật về tự chủ chưa đồng bộ, bất cập; cơ chế quản lý theo chế độ Bộ chủ quản không còn phù hợp; thiếu quy định và định nghĩa cụ thể về tự chủ và quyền của các trường đại học trong việc xác định quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường… đang là rào cản lớn nhất.
Chính vì vậy, nhiều nội dung đẩy mạnh tự chủ đại học đã được đưa ra trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
Nói rõ hơn về điều này, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cho hay, các quyết định tự chủ là quyết định của Thủ tướng Chính phủ ký riêng cho từng trường.
Nghị quyết của Chính phủ về mặt pháp lý dưới các Nghị định và Luật khác, hơn nữa chi phối vào các trường đại học về mặt pháp lý không chỉ có Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục mà còn có nhiều Luật khác như Luật Công chức viên chức, Luật Ngân sách nhà nước... khi những Luật này có những yếu tố cản trở đối với tự chủ đại học sẽ dẫn tới khó khăn cho các trường đại học.
Như vậy, việc thể chế hóa trong văn bản cao nhất của giáo dục đại học rất cần thiết, tạo hành lang pháp lý vững chắc, lâu dài cho các trường đại học thực hiện việc tự chủ của mình.
Vai trò, vị trí của giáo dục đại học tư thục được thể hiện ra sao theo Luật mới? |
“Tuy nhiên, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học lần này cũng chưa sửa đổi hết được vì có các Luật chuyên ngành khác, sau này khi sửa đổi các Luật khác cũng phải có sửa đổi tương ứng để giúp cơ sở giáo dục đại học tự chủ.
Lần này, 3 nội dung lớn của tự chủ về chuyên môn, học thuật; tổ chức, nhân sự; tài chính, tài sản đều đưa vào trong dự thảo lần này, tạo điều kiện cho các trường khi thực hiện”, Thứ trưởng Phúc nhấn mạnh.
Hơn nữa, không chỉ với cơ sở giáo dục đại học công lập, nội dung tự chủ được mở rộng các cơ sở giáo dục đại học tư thục, đặc biệt là nội dung liên quan đến vấn đề chuyên môn học thuật, như mở ngành, liên kết đào tạo, hợp tác quốc tế... Các cơ sở giáo dục đại học công lập và tư thục bình đẳng như nhau, chỉ căn cứ trên vấn đề bảo đảm chất lượng.
“Đây là những nội dung mới, phù hợp với xu thế phát triển, để tạo sự cạnh tranh bình đẳng, năng động và hướng tới chất lượng cao hơn, hiệu quả tốt hơn của toàn bộ hệ thống giáo dục đại học”, Thứ trưởng Phúc chỉ rõ.