LTS: Tiếp tục nội dung của bài trước về “Nguồn nhân lực thấp kém của Việt Nam”, trong bài này, TS. Lê Viết Khuyến nêu lên sự cấp thiết phải tái cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó tập trung phân luồng mạnh sau THCS.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu với quý bạn đọc.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, muốn đẩy mạnh kinh tế của một quốc gia không phải chỉ cần có các nhà khoa học, các giáo viên, kỹ sư, các nhà kinh doanh, nhà quản lý... mà còn phải có đội ngũ đông đảo các công nhân, kỹ thuật viên lành nghề, các nhà công nghệ; nói khác đi là còn cần phải có một đội ngũ nhân lực phong phú, thạo việc và đồng bộ trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội.
Bởi vậy, trong khu vực giáo dục đại học nếu chỉ chú ý phát triển phân hệ giáo dục hàn lâm hay học thuật (Academic/University Education) chú trọng cung cấp kiến thức lý luận cho người học như ở Việt Nam hiện nay thì chưa đủ, nhất là khi đã triển khai các công nghệ cao.
Một đặc điểm hết sức quan trọng của giáo dục sau trung học tại các quốc gia "Con rồng Châu Á" là bên cạnh phân hệ giáo dục học thuật (không trùng hoàn toàn với phân hệ giáo dục đại học nghiên cứu như ở Việt Nam vẫn gọi) còn có phân hệ giáo dục công nghệ (Technological Education).
Điều này cho phép các trường công nghệ nhấn mạnh kỹ năng thực hành và khía cạnh huấn luyện của giáo dục công nghệ, và cũng cho phép các trường uyển chuyển hơn trong vấn đề thiết kế nội dung chương trình đào tạo để đáp ứng các nhu cầu của thị trường nhân lực một cách nhanh chóng hơn.
Ảnh minh họa Xuân Trung |
Hai phân hệ này sẽ rất khác biệt về cấu trúc nội dung chương trình đào tạo cũng như về tiêu chuẩn đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, chi phí đào tạo...Nhờ có được cả 2 loại nhân lực ở trình độ đại học như vậy nên các nước này đã rút ngắn được tiến trình công nghiệp hoá của mình, lẽ ra phải diễn ra trong hàng thế kỷ, song trên thực tế chỉ cần vài ba thập kỷ.
Trong khi đó ở Việt Nam những cố gắng của cả cấp vĩ mô cũng như ở cấp vi mô lại vẫn hướng dẫn các trường chủ yếu đi theo hướng thứ nhất.
Phân luồng học sinh – sinh viên như thế nào cho hợp lý?
Kinh nghiệm thế giới cho thấy càng đi sâu vào tiến trình công nghiệp hóa thì cơ cấu trình độ và cơ cấu ngành nghề sẽ càng đa dạng hơn; và để đáp ứng được sự đa dạng đó, hệ thống giáo dục của quốc gia bắt buộc phải phân luồng mạnh.
Có hai hướng phân luồng chính: Phân luồng học sinh bắt đầu từ sau trung học phổ thông (thường diễn ra ở các nước phát triển) và phân luồng học sinh từ sau trung học cơ sở (diễn ra ở các nước đang phát triển).
Đối với Việt Nam, định hướng phân luồng từ sau trung học cơ sở của hệ thống giáo dục đã thể hiện ngày càng rõ hơn qua các văn bản pháp quy (Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học, Nghị quyết 29-NQ/TW, …).
Tuy nhiên, thực tiễn đào tạo nguồn nhân lực của nước ta trong nhiều năm qua lại diễn ra hoàn toàn theo chiều hướng trái ngược. Thí dụ, theo thống kê giáo dục năm 2010-2011, 81,1% học sinh sau tốt nghiệp THCS được tuyển vào THPT, 9,86% gia nhập thị trường lao động.
Đất nước khó qua đói nghèo khi nguồn nhân lực thấp kém(GDVN) - “Ở Việt Nam, cả hai loại nguồn lực tài chính và tài nguyên thiên nhiên đều hạn chế nên nguồn lực con người đương nhiên sẽ đóng vai trò quyết định”. |
Chính tỷ lệ nhập học THPT cao như vậy đã dẫn tới tình trạng quy mô học sinh hệ trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề quá thấp so với quy mô sinh viên đại học – cao đẳng (mặc dù tỷ lệ nhập học đại học của Việt Nam vẫn còn ở dưới mức trung bình của thế giới) cũng như nhiều gay cấn khác có liên quan tới sự quá tải của các kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng hàng năm.
Vừa qua Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và Hiệp hội Vì giáo dục cho mọi người đã trình lên Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam bản kiến nghị tái cấu trúc hệ thống giáo dục cho các thập niên đầu thế kỷ 21.
Sơ đồ tái cấu trúc chủ yếu chỉ động chạm tới các phân hệ đào tạo nguồn nhân lực, với giả định giữ nguyên phân hệ giáo dục phổ thông (theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW). Các căn cứ để thiết kế sơ đồ này là:
Thứ nhất, những định hướng cơ bản của Nghị quyết Trung ương 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế (hình thành một hệ thống giáo dục mở, thực hiện liên thông giữa các bậc học và trình độ,đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, phân luồng mạnh học sinh sau trung học cơ sở, ...).
Khung cơ cấu lại hệ thống giáo dục quốc dân của 3 Hiệp hội. |
Thứ hai, những định hướng cơ bản của Nghị quyết Chính Phủ 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
Thứ ba, các nguyên tắc cơ bản của Phân loại giáo dục theo các tiêu chuẩn quốc tế đã được UNESCO ban hành (ISCED 2011).
Nét cơ bản của sơ đồ là việc thực hiện triệt để phân luồng học sinh sau THCS theo hai hướng: 50% theo hướng THPT (General Secondary) và 30% theo hướng trung học nghề (Vocational Secondary).
Có chính sách ưu đãi khuyến khích học sinh đi vào hướng trung học nghề. Khi vào khu vực giáo dục đại học, hai hướng phân luồng tiếp theo và liên thông với hai hướng trên là: hướng nghiên cứu (Academic) và hướng ứng dụng-thực hành (Professsional), bảo đảm tỷ lệ sinh viên giữa hai hướng này là 20-30: 80-70.
Để cấu trúc lại hệ thống giáo dục quốc dân cho đồng bộ với thực trạng phát triển của chính mình và phù hợp với xu hướng quốc tế, thì trước hết phải triển khai một loạt các giải pháp cấp bách như:
Nhà nước chỉ đạo tập trung ở tầm vĩ mô, kết hợp với phân cấp hợp lý cho các địa phương, Bộ, Ngành; trả trình độ cao đẳng về cho giáo dục đại học; tổ chức xây dựng hệ thống trường trung học nghề bảo đảm học sinh tốt nghiệp vừa có trình độ học vấn vừa có nghề thành thạo.
Quy hoạch lại các trường đại học theo hai hướng: Hướng nghiên cứu và hướng ứng dụng - thực hành; ban hành các chuẩn quốc gia về giáo dục (trong đó có khung trình độ quốc gia); xây dựng mạng lưới các trung tâm kiểm định độc lập chất lượng giáo dục;...
Sở hữu và hiệu quả quản lí từ các trường đại học tư trong tự chủ đại học(GDVN) - Đại học tư ở Việt Nam tất yếu có Hội đồng Quản trị, bởi vì các trường này cần một số vốn lớn ban đầu để có thể hoạt động. |
Về lâu dài, phải từng bước sáp nhập một số viện nghiên cứu khoa học vào các trường đại học trọng điểm để hình thành các đại học nghiên cứu; từng bước xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, tập trung chức năng quản trị cho hội đồng trường, trao quyền tự chủ thực sự cho cơ sở giáo dục đại học; chuyển một bộ phận cơ sở giáo dục đại học công lập qua cơ chế tự chủ, tự hạch toán tài chính.
Xây dựng một số học viện công nghệ dựa trên việc hợp nhất và tổ chức lại các cơ sở giáo dục và các viện nghiên cứu chuyên ngành theo hướng công nghệ mũi nhọn trực thuộc trung ương; tổ chức lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tại từng địa phương để hình thành các cao đẳng/đại học cộng đồng; củng cố và nâng cao năng lực cho hai trường đại học mở,chủ yếu triển khai phương thức đào tạo từ xa.
Ngoài ra, rất cần thường xuyên điều chỉnh cơ cấu phân luồng người học dựa theo dịch chuyển cơ cấu kinh tế cả ở tầm quốc gia lẫn tầm địa phương.
Chiến lược giáo dục của Việt Nam cần theo nguyên tắc gì?
Giáo dục đi trước một bước (mặc dù phải chấp nhận nguồn lực hạn hẹp) để tạo ra nguồn nhân lực đồng bộ, lành nghề, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển (kể cả tạo điều kiện thuận lợi để gọi vốn đầu tư). Nhờ vậy ngân sách Nhà nước mới tăng kéo theo tăng ngân sách cho giáo dục…
Với các bước đi như vậy nên không thể có một lời giải đúng đắn duy nhất mà chỉ có một loạt những lời giải tối ưu cho từng thời gian khác nhau đối với bài toán quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo của Việt nam.
Hiện nay cũng như trong thời gian tới, ngành giáo dục và đào tạo không nên tập trung mọi nỗ lực nhằm thoả mãn tối đa các mục tiêu dân trí. Do đó cần xem xét lại cơ chế phân bổ ngân sách giáo dục và nguồn lực huy động từ xã hội theo hướng ưu tiên đầu tư đồng thời vào 2 mục tiêu:
Phổ cập giáo dục cơ bản (bao gồm giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở) và đào tạo nguồn nhân lực đồng bộ, lành nghề (bao gồm các trình độ đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng thực hành và trung học nghề). Phải triển khai phân luồng triệt để học sinh từ sau bậc trung học cơ sở.
Trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp, Nhà nước phải có cơ chế chính sách rõ ràng để định hướng cho sự phát triển hài hòa và ổn định của toàn hệ thống giáo dục đại học và chuyên nghiệp, thông qua phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp và hiệu quả của toàn hệ thống, đặc biệt đối với khu vực trường trực thuộc Trung ương (nhận ngân sách giáo dục Nhà nước), trên cả 2 phương diện: mạng lưới trường và quy trình đào tạo.
Thiết lập cơ chế mở, liên thông đào tạo, kiên quyết xoá bỏ tình trạng khép kín, cát cứ, tư tưởng cục bộ ở từng trường hoặc từng ngành trong hệ thống.
Trong lĩnh vực quản lý giáo dục cần kiên quyết xóa bỏ ngay cơ chế xin – cho“, thực hiện quyền tự chủ - trách nhiệm xã hội thực sự của các cơ sở giáo dục đại học trên cơ sở thiết lập cơ chế hội đồng trường đích thực, tiến tới xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản.
Cần có chính sách lôi cuốn các tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia giám sát các cơ sở giáo dục đại học trong việc thực hiện các chuẩn mực ( trong đó có các chuẩn mực chất lượng ) được Nhà nước quy định.
Thực hiện triệt để chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng. Đối với lĩnh vực giáo dục đại học, Nhà nước cần sớm làm rõ những vấn đề về sở hữu, tính chất vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận, trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học, cơ chế chính sách phù hợp... như đã nêu tại Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ.
Đồng thời Nhà nước cần có chủ trương thực sự khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học không vì lợi nhuận, hoàn thiện quy chế trường đại học tư không vì lợi nhuận và các chế độ chính sách ưu đãi cụ thể cho các cơ sở giáo dục đại học loại này.