Nợ công tăng do chúng ta vay để trả nợ

08/06/2016 16:03
Mai Anh
(GDVN) - Nợ công hiện nay đang áp sát ngưỡng kiểm soát do Quốc hội đề ra và đặt ra thách thức trong việc đảm bảo an toàn nợ công nói riêng và nền kinh

Vay để trả nợ

Trung tâm Nghiên cứu Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – BIDV vừa công bố Báo cáo thực trạng nợ công Việt Nam giai đoạn 2011 -2015 cũng như đề xuất đảm bảo an toàn nợ công giai đoạn 2016 – 2020.

Trung tâm nghiên cứu BIDV cho biết, trong giai đoạn 2011- 2015, nợ công gia tăng nhanh chóng với mức 16,7%/năm.

Theo đó, cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ công lên đến 2.608 nghìn tỷ đồng, gấp 1,9 lần so với cuối năm 2011 (1.393 nghìn tỷ đồng). Về số tương đối, cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội.  

Nợ công ra tăng trong giai đoạn 2011 - 2015 do chúng ta vay để trả nợ - ảnh minh họa / nguồn ảnh: Chinhphu.vn
Nợ công ra tăng trong giai đoạn 2011 - 2015 do chúng ta vay để trả nợ - ảnh minh họa / nguồn ảnh: Chinhphu.vn

Đáng lưu ý, theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể đã cao hơn so với mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế uy tín có sự khác biệt.

Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên nguyên tắc: Trách nhiệm thanh toán thuộc về chủ thể đi vay; Còn nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế được xác định trên cơ sở: chủ sở hữu thực sự hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi vay phải có trách nhiệm thanh toán. 

Nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ của: Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước,  tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội và một số địa phương.

Căn cứ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhiều chuyên gia đưa ra ước tính và cho rằng tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã vượt mức 100%.

Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là 90%, các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30-40%. Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra 65% là phù hợp với thông lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro.

Trước đây, nợ công hầu hết là nợ nước ngoài hay vốn vay ODA với lãi suất từ 1% đến dưới 3%.

Từ năm 2010, Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên nợ nước ngoài có mức độ ưu đãi giảm dần. Vì vậy, nợ công dịch chuyển sang nguồn vay trong nước, tăng từ 40% năm 2011 lên 57,1% năm 2015. 

Nợ công tăng do chúng ta vay để trả nợ ảnh 2

Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp mạnh mẽ, GDP 2016 sẽ đạt 6,5-6,7%.

(GDVN) - Trung tâm nghiên cứu BIDV nhận định, với quyết tâm hỗ trợ doanh nghiệp mạnh mẽ của Chính phủ, GDP cả năm Việt Nam đạt 6,5-6,7%.

Nợ công tăng do chúng ta vay để trả nợ ảnh 3

Vietcombank, Vietinbank, BIDV vào Top 2000 doanh nghiệp lớn nhất thế giới

(GDVN) - Vietcombank, Vietinbank và BIDV được Tạp chí Forbes bầu chọn trong danh sách Global 2000, gồm các công ty đại chúng lớn và quyền lực nhất thế giới.

Theo Trung tâm nghiên cứu BIDV, hiệu quả sử dụng nợ công Việt Nam không cao khi nền kinh tế có mô hình tăng trưởng theo chiều rộng.

Việc đầu tư dàn trải dẫn tới hiệu quả không cao, nhất là đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước.

Một phần đáng kể của nợ công được sử dụng để trả nợ thay cho đầu tư phát triển, có nghĩa thay vì vay để phát triển chúng ta vay để trả nợ. 

Tỷ lệ trả nợ trong kỳ/dư nợ vay của Chính phủ và khoản vay được Chính phủ bảo lãnh ở mức khoảng 14,2% năm 2014 và lên đến 16% năm 2015 theo ước tính của WorldBank.

Việc dành đến 14%-16% dư nợ công trong kỳ để trả nợ gây hạn chế đến đầu tư phát triển và chi để tăng ngân sách lao động, giáo dục, y tế và các lĩnh vực thiết yếu khác.

Cơ cấu chi ngân sách không bền vững, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nợ công. Trong giai đoạn 2011 - 2015 chi ngân sách chủ yếu là chi thường xuyên với mức tăng trưởng là 18,44%/năm. Ngược lại, chi đầu tư phát triển có xu hướng giảm, nhất là từ năm 2013 đến nay, chỉ ở mức 4,8%/năm.

Hiện nay, theo các Tổ chức quốc tế và trong nước, khả năng vỡ nợ của Việt Nam là khá thấp.

Tuy nhiên, trên thực tế, nợ công vẫn đang là vấn đề cấp bách bởi chỉ tiêu nợ phải trả (nợ gốc và lãi) có nguy cơ tiến sát vượt ngưỡng cảnh báo; nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh trong khi nguồn trả nợ công không bền vững; tác động tiêu cực của nợ công với nền kinh tế, theo đó các khoản lãi và một phần nợ gốc phải trả trong ngắn hạn đang ngày càng tăng cao, gây sức ép lên cân bằng ngân sách nhà nước. 

Nâng cao hiệu quả đầu tư công để giảm nợ

Theo Trung tâm nghiên cứu BIDV, mục tiêu đến năm 2018 tỷ lệ nợ công/GDP Việt Nam là dưới 63%, các chỉ tiêu nợ Chính phủ không quá 55% và nợ nước ngoài/GDP dưới ngưỡng kiểm soát 50%.

Đến năm 2020, tỷ lệ này nợ công/GDP là dưới 60%, các chỉ tiêu nợ Chính phủ và nợ nước ngoài/GDP được kiểm soát tốt và có bước đệm để duy trì dưới ngưỡng kiểm soát 50%. 

Để hoàn thành mục tiêu trên, Trung tâm nghiên cứu BIDV đề xuất giải pháp nâng cao năng lực quản lý nợ công. Theo đó trước tiên phải hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nợ công.

Trung âm nghiên cứu BIDV đề nghị cần xem xét thành lập Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công - trực thuộc Quốc hội có chức năng: Giám sát các vấn đề nợ công và NSNN; Giám sát, chỉ đạo hoạt động và sự phối hợp của các đơn vị liên quan tới các vấn đề trên;

Cấp phép và giám sát hoạt động của các cơ quan chuyên môn cao được phép cung cấp dịch vụ tư vấn và đấu thầu cho dự án dùng vốn nợ công; Tham mưu cho Quốc hội về việc Ban hành Luật, trong đó có quy định về đãi ngộ/ chế tài đối với cá nhân liên quan tới hoạt động quản lý, sử dụng và giám sát nợ công…

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cần đưa ra văn bản hướng dẫn thi hành Luật về nợ công, quản trị rõ ràng, xây dựng hệ thống quốc gia về khai báo các khoản vay. Trong thẩm quyền được giao, Bộ Tài chính tự ra quyết định về ngân sách nhà nước, phê duyệt các khoản vay và đầu tư.

Ngoài ra cần đổi mới trong quản lý vốn vay nước ngoài, theo kinh nghiệm của các nước phát triển, BIDV đề xuất một mô hình mới trong việc tổ chức vận động, thu hút và quản lý các dự án vay vốn nước ngoài.

Hoàn thiện các công cụ quản lý tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chỉ vay nợ khi có dự án hiệu quả và nguồn trả nợ rõ ràng, có tính đến các kịch bản rủi ro có thể xảy ra để đảm bảo khả năng thanh toán của Chính phủ. Tiến tới áp dụng quy tắc “ai hưởng lợi, người đó trả nợ” nhằm nâng cao trách nhiệm sử dụng và bảo vệ nguồn thu từ chủ dự án dùng vốn nợ công (kinh nghiệm của Trung Quốc).

Mặt khác cần nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công và đầu tư công; Tăng cường kỷ luật ngân sách nhà nước và phối hợp chính sách; Phát triển nội lực của nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Mai Anh