Theo đánh giá của Hiệp hội, khối các cơ sở GDĐH ngoài công lập phát triển tương đối nhanh, góp phần đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục.
Năm 1997, cả nước mới chỉ có 15 cơ sở GDĐH ngoài công lập, đến hết 9/2009 con số này là 78 trường, tăng 5,2 lần, góp phần tăng quy mô đào tạo của khối trường ngoài công lập (NCL) lên 218.189 sinh viên vào năm học 2008 - 2009, chiếm 12,7% so với tổng quy mô đào tạo của cả nước. Đến hết năm 2012 cả nước có 54 trường đại học và 30 trường cao đẳng NCL, với quy mô sinh viên đại học, cao đẳng lên đến 336.998 sinh viên.
Trường Đại học Thăng Long, ngôi trường ngoài công lập đầu tiên của cả nước. |
Các trường NCL chủ yếu được thành lập theo phương thức xây dựng mới hoàn toàn (52/58 trường thành lập mới hoàn toàn từ năm 1998 đến 2009 là trường NCL). Tuy các trường còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc tạo dựng cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giảng viên và kinh nghiệm tổ chức đào tạo nhưng phương thức này cho phép huy động được sự đóng góp của các nhà đầu tư để xây dựng trường, góp phần thực hiện xã hội hoá GDĐH, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và đào tạo nguồn nhân lực trong điều kiện ngân sách giáo dục của Nhà nước còn hạn hẹp.
Kết quả khảo sát thực tế của Đoàn giám sát Quốc hội 2010 cũng cho thấy tuy còn nhiều khó khăn nhưng các trường sau khi được thành lập đều hoạt động đúng mục tiêu, tôn chỉ mục đích, chưa có những sai sót nghiêm trọng; chưa có tình trạng xin đất sau đó chuyển đổi mục đích sử dụng.
Tổng số vốn điều lệ đăng ký thành lập các trường này đến 9/2009 là 1.555 tỷ đồng. Năm 2008 tổng thu học phí từ các trường NCL là 1.850 tỷ đồng. Quy mô sinh viên là 218.200 người, đội ngũ giảng viên có 7.718 người.
Tổng số tiền đã huy động được trong 20 năm qua, tạm tính (mới chỉ tính về học phí) đã là gần 30 ngàn tỉ đồng, gấp 6 lần tổng số tiền phát hành trái phiếu giáo dục lần đầu. Có thể xem đấy là khoản tài chính mà các trường đại học và cao đẳng NCL đã gánh cho ngân sách nhà nước.
Với tư duy đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển. Trên lĩnh vực giáo dục đào tạo, “xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo ngoài công lập đã góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của toàn xã hội” ( NQ TW 8).
Số liệu thống kê năm học 2010-2011 của Bộ GD&ĐT cho thấy trong lĩnh vực GDĐH, trên cơ sở bốn tiền đề được xây dựng để thích nghi với đổi mới cơ chế kinh tế xã hội lúc bấy giờ, một trong những ý tưởng đổi mới là việc chấp nhận sự tồn tại của các cơ sở GDĐH ngoài công lập, với sứ mạng là huy động thêm các nguồn lực ngoài ngân sách và biên chế nhà nước, đồng thời xây dựng các mô hình đại học có độ tự chủ cao, quản lý năng động và hiệu quả, làm đối chứng với mô hình cũ được bao cấp và thụ động; hy vọng đây sẽ là yếu tố mới có hoạt tính cao để cùng với hệ thống các trường công lập phát triển nền GDĐH nước nhà, một lực lượng xung kích quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo tinh thần đó, cuối năm 1988 Trung tâm đại học dân lập Thăng long được thành lập.
Cuối năm 1988 Trung tâm đại học dân lập Thăng Long được thành lập. Sau 5 năm thí điểm hoạt động của Trung tâm đại học dân lập Thăng Long, thì hơn mười trường đại học ngoài công lập khác ra đời trong những năm 90. |
Sau 5 năm thí điểm hoạt động của Trung tâm đại học dân lập Thăng Long, hơn mười trường đại học ngoài công lập khác ra đời trong những năm 90. Cho đến nay qua 20 năm cả nước đã có 54 trường đại học và 30 trường cao đẳng ngoài công lập đã góp phần thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và hội nhập quốc tế.
Các trường đại học, cao đẳng NCL đã huy động được nguồn vốn khá lớn để xây dựng cơ sở vật chất, phát triển đội ngũ, xây dựng chương trình đào tạo và phục vụ các hoạt động trong trường.
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học NCL đều cố gắng thực hiện cam kết trong đề án thành lập trường. Hội đồng quản trị nhiều trường đại học, cao đẳng NCL đã có lộ trình cụ thể trong việc xây dựng và phát triển nhà trường về đất đai, cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị; xây dựng chương trình, tuyển dụng và đào tạo đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý.
Bất cập lớn nhất là sự phân biệt đối xử giữa sinh viên công lập và NCL về mặt đãi ngộ của nhà nước. Có người nói sinh viên NCL bị nhà nước đối xử như công dân loại hai. Trong khi sinh viên công lập được nhà nước đãi ngộ với nhiều mức khác nhau (được học bổng; được miễn toàn bộ chi phí đào tạo tức miễn học phí; chí ít cũng được miễn đến 60-70% chi phí đào tạo, chỉ đóng một mức học phí rất thấp so với chi phí đó) thì các sinh viên NCL, cũng là những công đân có đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi như các sinh viên của trường công lập lại không được nhà nước đãi ngộ chút nào mặc dù họ không có lỗi gì mà phải chịu chế tài cả.
Sinh viên trường công và ngoài công lập cần được đối xử như nhau. Ảnh minh họa |
Trong Luật Giáo dục 2005, nội dung ở Điều 20 (cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi) mâu thuẫn với Điều 66 (chấp nhận chia lãi suất cho thành viên góp vốn) và Điều 67 (chấp nhận sở hữu tư nhân). Điều này cũng mâu thuẫn với các nội dung ở Nghị quyết 05 của Chính phủ. Đề nghị nên viết lại Điều 20 của Luật Giáo dục là: Nhà nước khuyến khích các hoạt động giáo dục không vì lợi nhuận.
Ngoài ra, một số quy định cụ thể của Bộ GD&ĐT và nhiều Bộ, Ngành khác có khi còn gây khó khăn cho hoạt động của các cơ sở GDĐH NCL. Thí dụ như việc Bộ GD&ĐT quy định điểm sàn trong khi lại cho phép các trường công tuyển sinh nhiều lần hoặc tuyển hệ B (đóng học phí cao) cũng như chính sách tuyển sinh cao đẳng, đại học của Bộ từ năm 2012 ( mở rộng quá mức chỉ tiêu tuyển sinh của hệ thống trường công lập trong khi khống chế trần dưới bằng việc chọn điểm sàn khá cao) cũng làm cho các cơ sở GDĐH NCL gặp rắc rối trong khâu tuyển sinh, thậm chí không tuyển đủ chỉ tiêu vì cạn kiệt nguồn tuyển.
Một số vấn đề chưa có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Vấn đề lớn nhất còn tồn tại ở cả Luật Giáo dục, Luật Giáo dục ĐH và nhiều văn bản quy phạm pháp luật là chưa làm rõ cơ chế sở hữu cũng như tính chất "không vì lợi nhuận” của các loại hình trường NCL. Từ đó dẫn đến hậu quả là cho tới nay vẫn chưa có được các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cách thức công nhận các cơ sở GDĐH NCL không vì lợi nhuận và những chính sách khuyến khích đặc biệt đối với loại trường này.
Quy chế được xây dựng theo mô hình tổ chức và hoạt động của một công ty cổ phần, hoàn toàn thuộc cơ chế vì lợi nhuận, một cơ chế không được Nhà nước ưu tiên khuyến khích như ở Nghị quyết 05 và Luật Giáo dục. Chỉ những người góp vốn vật chất mới được tham gia HĐQT, mới được biểu quyết các vấn đề lớn của nhà trường. Các giá trị phi vật chất như công lao sáng lập, xây dựng trường, thâm niên làm việc tại trường, giá trị thương hiệu cá nhân... đều không tính thành giá trị cổ phần nên các nhà giáo, các nhà khoa học , những người nhiều tâm huyết với giáo dục chỉ giữ vai trò thụ động.
Bốn khuyến cáo từ Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập
Thứ nhất, nội bộ nhà trường cần xử lý vấn đề tài chính với tầm nhìn dài hạn, biết lấy ngắn nuôi dài, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa các loại lợi ích, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong các nhà đầu tư, trước hết là các cổ đông lớn, và chính ở đây người ta thường nhấn mạnh tới vai trò của những nhà đầu tư có tâm và có tầm.
Thứ hai, phải tập xây dựng đội ngũ và môi trường sư phạm. Việc xây dựng đội ngũ đối với cơ sở GDĐH NCL đòi hỏi công sức và trí tuệ không những của các nhà lãnh đạo và quản lý cấp trường mà cả cấp khoa và bộ môn và phải được thực thi thống nhất và lâu dài.
Thứ ba, phải chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo ngay từ khi bắt đầu hoạt động và từng bước phải được nâng lên ngang tầm quốc gia. Thực tế đây là đòi hỏi rất khó , và sự hơn kém giữa các trường chính là ở điểm này. Giải pháp liên quan đến vấn đề đó không chỉ nằm ở bản thân mỗi trường mà còn ở chính sách của nhà nước, đặc biệt là chính sách bảo đảm cho trường thực hiện tốt quyền tự chủ để qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho mỗi trường
Thứ tư, phải từng bước xây dựng uy tín và thương hiệu cho trường một cách bài bản và phù hợp với văn hóa Việt...