Một trong những mục tiêu đến năm 2030 được Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã đặt ra là: “Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học đóng vai trò nòng cốt trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của các vùng và địa phương, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu các ngành, lĩnh vực trọng điểm”.
Đồng thời, Nghị quyết 71 cũng đưa ra nhiệm vụ nhằm hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo cụ thể như sau: “tăng cường quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học, nghiên cứu chuyển một số trường đại học về địa phương quản lý để nâng cao hiệu quả quản lý và đáp ứng tốt hơn yêu cầu đào tạo nhân lực của địa phương”.
Có thể thấy rằng, công tác đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực cho từng vùng, từng địa phương đang được Đảng đặc biệt quan tâm, chú trọng, là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Chủ trương đúng đắn và cần thiết
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Viết Báu – Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Hồng Đức cho hay, việc chuyển một số trường đại học về địa phương quản lý là chủ trương hết sức đúng đắn. Bởi, thực tế hiện nay đang có tình trạng một số trường đại học do địa phương quản lý có xu hướng sáp nhập về đại học quốc gia, đại học vùng. Điều này nếu thực hiện có thể sẽ làm sai lệch sứ mệnh của các trường đại học địa phương này.
Tuy nhiên, việc tái cấu trúc hệ thống các cơ sở giáo dục đại học cũng cần có những tiêu chí, tiêu chuẩn, điều kiện và có bước đi, lộ trình phù hợp. Từ đó mới giúp các trường đại học thực hiện đúng sứ mệnh của mình, đặc biệt là trong việc nâng cao vai trò tự chủ, bảo đảm việc chuyển giao tri thức, đào tạo nguồn lực lao động chất lượng phù hợp với yêu cầu sử dụng nguồn nhân lực của địa phương, ngành, vùng/quốc gia.

Để thống nhất về mặt quản lý nhà nước nhưng vẫn tăng cường vai trò tự chủ cho hệ thống cơ sở giáo dục đại học, thầy Báu đã lưu ý một số nội dung quan trọng.
Thứ nhất, cần xác định rõ vai trò của Nhà nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ/ngành giữ vai trò kiến tạo và giám sát, ban hành chuẩn chung (chương trình đào tạo, kiểm định chất lượng, chuẩn giảng viên, tài chính công), nhưng không can thiệp sâu vào việc vận hành của các trường;
Thứ hai, phân định quyền hạn minh bạch. Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm chiến lược vĩ mô, đảm bảo chuẩn quốc gia, kiểm định và giám sát hệ thống; Địa phương/cơ quan chủ quản đặt hàng đào tạo, phân bổ nguồn lực, tạo điều kiện gắn kết với nhu cầu phát triển; Trường đại học được tự chủ học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, chính sách chất lượng trong khuôn khổ pháp luật, và có trách nhiệm giải trình;
Thứ ba, tăng cường cơ chế giải trình và kiểm định độc lập. Các trường đại học thực hiện tự chủ phải đi kèm trách nhiệm, phải công khai kết quả đào tạo, tài chính, kiểm định chất lượng; Nhà nước quản lý trường đại học bằng hình thức hậu kiểm thay vì bằng mệnh lệnh hành chính, nhất là cơ chế xin - cho;
Thứ tư , thiết lập cơ chế phối hợp 3 bên (Bộ Giáo dục và Đào tạo – địa phương – trường). Mọi quyết sách lớn (mở ngành mới, chiến lược nhân lực, dự án đầu tư lớn, ...) cần được thống nhất giữa 3 bên.
Thứ năm, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Cần hiểu rõ, thống nhất quản lý không có nghĩa là “cào bằng” mà vẫn tạo điều kiện cho các trường phát triển theo thế mạnh riêng, dựa trên cơ chế xếp hạng, kiểm định và công khai minh bạch.
Sứ mệnh đào tạo của trường đại học là yếu tố tiên quyết khi nghiên cứu chuyển đổi
Để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu chuyển một số trường đại học về địa phương quản lý theo tinh thần Nghị quyết 71, thầy Báu cho rằng, trước hết cần xây dựng bộ tiêu chí phân loại rõ ràng để xác định trường nào nên giao cho địa phương quản lý, trường nào tiếp tục thuộc các bộ, ngành trực tiếp quản lý.
Song song với đó, cần ban hành các quy định cụ thể về quy trình, lộ trình chuyển giao, cũng như phân cấp, phân quyền và trách nhiệm giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố, nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo và nguồn lực tài chính cho các trường sau khi chuyển giao.
Theo thầy Báu, cần tạo điều kiện để địa phương và nhà trường chủ động, sáng tạo hơn trong quản lý và đào tạo, thúc đẩy năng lực nghiên cứu khoa học ứng dụng và nâng cao tính tự chủ trong phát triển nguồn nhân lực tại chỗ, phù hợp với tiềm năng, lợi thế và định hướng phát triển riêng của từng địa phương. Trong đó, những trường có sứ mệnh chủ yếu phục vụ nhu cầu đào tạo nhân lực và nghiên cứu gắn với đặc thù của địa phương – như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, khai khoáng, kỹ thuật phục vụ khu công nghiệp, hay du lịch – nên được giao về cho địa phương quản lý.
“Tôi cho rằng, khi xem xét việc chuyển một trường đại học về cho địa phương quản lý, yếu tố đầu tiên cần quan tâm là sứ mệnh đào tạo của nhà trường. Tiếp đến là những ngành nghề trọng yếu gắn với quản lý nhà nước và quản trị quốc gia mà trường đã và đang đào tạo. Sau đó, cần đánh giá về quy mô, tiêu chuẩn, phạm vi hoạt động và mức độ ảnh hưởng của trường trong công tác tuyển sinh.
Khi đã được giao về địa phương quản lý, các trường đại học cần xây dựng chiến lược “đặt hàng” đào tạo dựa trên nhu cầu thực tiễn, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu những vấn đề đặc thù của địa phương. Cách làm này sẽ giúp khai thác tối đa hiệu quả, góp phần phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh/thành đó”, thầy Báu chia sẻ.
Mặt khác, theo thầy Báu, để bảo đảm về chất lượng cũng như yêu cầu đặt ra đối với những trường đại học chuyển về địa phương quản lý, Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn phải giữ vai trò quản lý nhà nước về chất lượng thông qua công tác hậu kiểm hoặc dựa trên kết quả kiểm định chất lượng giáo dục. Với một số ngành nghề đặc thù, Bộ cũng cần có sự can thiệp nhất định như quy định chuẩn đầu ra, khung chương trình hay các điều kiện đảm bảo khác để duy trì chất lượng đào tạo.
Bên cạnh đó, đối với Ủy ban nhân dân các địa phương, trách nhiệm chính là bảo đảm nguồn kinh phí cho nhà trường bằng hình thức đặt hàng đào tạo theo nhu cầu thực tiễn, ký hợp đồng đào tạo nhân lực, đồng thời đặt hàng các sản phẩm khoa học – công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và quản trị địa phương.
Đặc biệt, để nâng cao vai trò tự chủ và tính đổi mới sáng tạo của các trường, cần xóa bỏ cơ chế “xin – cho”. Thay vào đó, Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố và nhà trường cần ký “hợp đồng đặt hàng” với các cam kết cụ thể về số lượng đầu ra, tiêu chí chất lượng, thời hạn và nguồn tài chính hỗ trợ. Nếu nhà trường không đạt được các yêu cầu, sẽ có cơ chế xử lý phù hợp như hỗ trợ nâng cao chất lượng hoặc thay đổi mô hình quản lý.
Ngoài ra, về cơ chế tài chính, nhà trường cần được đảm bảo nguồn kinh phí tối thiểu từ Ủy ban nhân dân địa phương để thực hiện nhiệm vụ công theo hợp đồng. Đồng thời, trường được quyền huy động thêm nguồn lực xã hội, hợp tác doanh nghiệp, quản lý và sử dụng tài sản công theo quy định pháp luật, với điều kiện phải minh bạch và báo cáo đầy đủ.
Sau khi đã phân bổ kinh phí dựa trên “giá trị sản phẩm”, địa phương không can thiệp trực tiếp vào việc sử dụng nguồn lực của nhà trường, mà chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát. Đây là mô hình gần giống với mô hình quản trị đại học tại một số quốc gia châu Âu hiện nay.
Chuyển giao nhưng phải phát huy tính tự chủ và gắn kết với đặc thù từng địa phương
Cùng bàn về vấn đề trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiên Giang bày tỏ, để triển khai nhiệm vụ "nghiên cứu chuyển một số trường đại học về địa phương quản lý để nâng cao hiệu quả quản lý và đáp ứng tốt hơn yêu cầu đào tạo nhân lực của địa phương" mà Nghị quyết 71 đã đặt ra một cách hiệu quả thì cần thiết phải ban hành một số quy định quản lý mang tính thống nhất.

Trước hết, nên để Bộ Giáo dục và Đào tạo thống nhất quản lý về chuẩn chương trình đào tạo, khung năng lực chung của văn bằng, chứng chỉ trên tất cả các ngành; về công khai, chuẩn hoá, các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng, các văn bản (mức độ, điều kiện, cơ chế kiểm tra, kiểm soát, xử lý, giải trình…) tự chủ của các trường đại học. Đồng thời, thực hiện xây dựng cơ chế phân hạng, phân tầng đại học, xác định mức độ đầu tư các trường đại học công lập, trường trọng điểm; chính sách tài trợ đối với những ngành đào tạo trọng điểm mang tính chiến lược phát triển của quốc gia và quy định quản lý giám sát các trung tâm kiểm định độc lập.
Bên cạnh đó, cần xây dựng các trường đại học trọng điểm nhằm đào tạo theo chuẩn mực quốc tế và tạo sức cạnh tranh toàn cầu.
Không những vậy, cần phân quyền cho các cơ sở giáo dục đại học được tự chủ, tự chịu trách nhiệm giải trình theo quy định về: tổ chức bộ máy, bổ nhiệm nhân sự, tuyển dụng theo nhu cầu phát triển của trường. Song song với đó là tự chủ về xây dựng chương trình đào tạo gắn kết với tầm nhìn, sứ mệnh và chức năng cụ thể trên cơ sở chuẩn chương trình đào tạo; về tài chính (thu chi) trên cơ sở qui định của pháp luật; về tuyển sinh theo nhu cầu và quy định và tự tổ chức kiểm định chất lượng đào tạo theo chu kỳ qui định bởi các trung tâm độc lập.
Thầy Cang cho rằng, nếu giao thêm một số trường đại học cho địa phương quản lý, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần ban hành các văn bản, hướng dẫn quản lý giám sát về mặt chuyên môn nhằm đảm bảo chất lượng một cách công khai, minh bạch. Đồng thời, ban hành những văn bản quản lý được lượng hoá rõ ràng để có thể giám sát một cách toàn diện hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học.
Một lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học khác nhận định, những lĩnh vực đào tạo chuyên sâu, đặc thù vẫn nên do Bộ chủ quản trực tiếp quản lý để bảo đảm chất lượng cũng như định hướng chiến lược lâu dài. Việc chuyển giao quản lý cũng cần gắn với cơ chế giám sát chặt chẽ, cơ chế tài chính minh bạch và cơ chế đặt hàng cụ thể theo từng nhiệm vụ.
Mặt khác, để đảm bảo về nhu cầu nhân lực, vị lãnh đạo này cho rằng, địa phương có thể đặt hàng từ các trường đại học, qua đó các trường sẽ chủ động đào tạo nguồn nhân lực phù hợp.