Đào tạo sau đại học, đặc biệt là đào tạo tiến sĩ có vai trò đặc biệt quan trọng. Trình độ cao nhất trong hệ thống giáo dục đại học này không chỉ góp phần tạo ra tri thức mới, cung cấp nguồn nhân lực nghiên cứu, giảng dạy trình độ cao mà còn thúc đẩy năng lực nghiên cứu của các cơ sở giáo dục và đóng góp thiết thực vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của xã hội.
Tuy nhiên, công tác đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam hiện vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, từ số lượng, chất lượng cho đến chính sách hỗ trợ. Số lượng tiến sĩ còn hạn chế so với nhu cầu phát triển, chất lượng đào tạo chưa đồng đều, trong khi chính sách hỗ trợ nghiên cứu sinh còn thiếu hấp dẫn.
Tại cuộc họp rà soát, góp ý dự thảo các luật sửa đổi liên quan đến giáo dục với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh nhấn mạnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần dứt khoát "quản lý" việc đào tạo trình độ tiến sĩ và đào tạo các ngành sư phạm, y tế, luật. [1]

Theo quy định trước đây, quyết định cho phép đào tạo trình độ tiến sĩ thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (hoặc Giám đốc các Đại học Quốc gia đối với các đơn vị thành viên, trực thuộc).
Tuy nhiên, từ năm 2012, Luật Giáo dục đại học (Điều 36) đã trao quyền tự chủ mở ngành đào tạo tiến sĩ cho các cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn, có năng lực, đáp ứng đủ các điều kiện.
Đến năm 2018, Luật số 34/2018/QH14 và Thông tư số 02/2022/TT-BGDĐT tiếp tục mở rộng quyền này cho cơ sở đã được giao quyền tự chủ, có chương trình đào tạo thạc sĩ tương ứng đã được kiểm định (trừ các lĩnh vực đặc thù như sức khỏe, giáo viên, quốc phòng và an ninh).
Tuy nhiên, theo Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), các chương trình đào tạo tiến sĩ trong thời gian tới sẽ phải được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, thay vì để các trường có đủ điều kiện tự mở như hiện nay.
Lý giải cho thay đổi này, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, Luật hiện hành quản lý theo điều kiện mở ngành, chưa phân biệt rõ giữa mở ngành và triển khai chương trình đào tạo.
Dự thảo chuyển sang quản lý theo chương trình, trao quyền tự chủ cho cơ sở đào tạo trong khuôn khổ đăng ký, đồng thời quy định rõ các chương trình đặc thù cần được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.
Mục tiêu là để nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn học thuật và tăng tính trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo.
Trước thay đổi này, nhiều ý kiến cho rằng đây là điều chỉnh cần thiết để đảm bảo chất lượng học thuật, nhưng cũng không ít ý kiến lo ngại sẽ ảnh hưởng đến quyền tự chủ học thuật của các cơ sở đào tạo.
Cần siết chặt để nâng chuẩn đào tạo và kiểm soát chất lượng học thuật

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Lê Đông Phương - nguyên cán bộ Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (Bộ Giáo dục và Đào tạo), cho rằng đây là một động thái hợp lý trong bối cảnh hiện nay.
Theo ông, thời gian qua, nhiều cơ sở đào tạo cho rằng họ có đủ năng lực để mở ngành vì có đủ đội ngũ tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư. Tuy nhiên, theo ông, việc thiết kế chương trình đào tạo tại một số cơ sở vẫn còn hạn chế, có thể tác động đến chất lượng đầu ra.
Ông Phương cũng cho rằng, một số trường trong quá trình đào tạo có mời chuyên gia bên ngoài tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh, tuy nhiên không phải lúc nào cũng mời được đúng người, đúng chuyên môn.
“Khi đó, nghiên cứu sinh và cả cơ sở đào tạo không được hỗ trợ tốt về mặt chuyên môn học thuật. Câu chuyện từng gây tranh cãi về luận án tiến sĩ cầu lông là một ví dụ điển hình”, ông Phương nói.
Tiến sĩ Lê Đông Phương cho rằng, việc một số luận án bị tố đạo văn hoặc không đi đúng hướng chuyên môn là dấu hiệu rõ ràng cho thấy chất lượng đi xuống ở một số nơi, một số thời điểm.
“Đây chính là điều khiến xã hội bức xúc. Người ta có quyền đặt câu hỏi, những tiến sĩ chất lượng thấp hay “tiến sĩ rởm” đó sẽ đóng góp gì cho xã hội, cho nền khoa học? Nếu họ giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học thì có nguy cơ tiếp tục tạo ra sản phẩm giáo dục kém chất lượng”, ông Phương cảnh báo.
Trước lo ngại rằng việc yêu cầu phê duyệt chương trình có thể đi ngược lại tinh thần tự chủ đại học, Tiến sĩ Lê Đông Phương cho rằng cần nhìn thẳng vào năng lực thực tế.
Ông thẳng thắn bày tỏ: “Nói thì dễ, ai cũng muốn tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo, nhưng nếu cơ sở đó chưa đủ năng lực để tự chủ thì càng nguy hiểm. Với những trường đủ năng lực, có thể chứng minh được tiềm lực khoa học của mình thì việc xin phê duyệt chương trình đào tạo không phải là điều gì khó khăn”.
Còn nếu chỉ tập trung vào việc bảo vệ quyền tự chủ mà thiếu kiểm soát chất lượng thì hậu quả có thể lớn hơn nhiều.
“Ở nước ta, không ít người học tiến sĩ chỉ để đạt được vị thế xã hội, chứ không thực sự làm nghiên cứu khoa học hay giảng dạy”, ông thẳng thắn nói.
Tiến sĩ Lê Đông Phương cũng khẳng định, nếu là tiến sĩ thật sự thì chắc chắn sẽ đóng góp rất tốt, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhưng cũng cần nhìn nhận rằng không phải ngành nào, vị trí nào cũng cần đến bằng tiến sĩ.
“Việc đào tạo tràn lan không chỉ gây lãng phí nguồn lực, mà còn lãng phí cả thời gian của người học và người hướng dẫn”, ông nói.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Xuân Phương - Trưởng phòng Sau đại học (Trường Đại học Nha Trang) cũng cho rằng việc tăng cường việc quản lý đào tạo tiến sĩ là hoàn toàn cần thiết.
“Đào tạo tiến sĩ là quá trình tích lũy và hình thành năng lực nghiên cứu thực chất. Tôi hoàn toàn ủng hộ việc Bộ Giáo dục và Đào tạo siết chặt quản lý ở trình độ đào tạo cao nhất này để đảm bảo rằng người nhận học vị tiến sĩ thực sự có năng lực và có đóng góp học thuật trong lĩnh vực nghiên cứu của mình”, thầy Phương nêu quan điểm.
Lo ngại ảnh hưởng đến tự chủ học thuật
Còn Tiến sĩ Phạm Hiệp - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giáo dục và Chuyển giao tri thức (Trường Đại học Thành Đô) cho rằng, cần cân nhắc kỹ lưỡng để tránh ảnh hưởng đến quyền tự chủ của các trường trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước mở rộng tự chủ học thuật.

“Về nguyên tắc, Bộ Giáo dục và Đào tạo đương nhiên có vai trò quản lý đào tạo ở tất cả các trình độ, trong đó có đào tạo tiến sĩ. Tuy nhiên, nếu Bộ phê duyệt các chương trình đào tạo thì có thể làm chậm quá trình tự chủ và mất đi tính đổi mới sáng tạo của các cơ sở giáo dục đại học”, chuyên gia băn khoăn.
Với vai trò là người trực tiếp đào tạo nghiên cứu sinh, Tiến sĩ Phạm Hiệp cũng cho rằng chất lượng đào tạo không nằm ở việc ai duyệt chương trình đào tạo, mà ở năng lực triển khai và trách nhiệm giải trình của đơn vị đào tạo. Theo chuyên gia, việc các trường được phê duyệt chương trình đào tạo sẽ giúp tăng tính chủ động, đổi mới sáng tạo hơn.
Tiến sĩ Phạm Hiệp đánh giá chất lượng đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam trong những năm gần đây đang cải thiện rõ rệt.
“Là người trực tiếp hướng dẫn nghiên cứu sinh, tham gia hội đồng chấm luận án tiến sĩ, tôi thấy chất lượng hiện nay đã tốt hơn rất nhiều so với cách đây 5 hay 10 năm. Trong nhiều ngành, việc có công bố quốc tế đã trở thành tiêu chuẩn bình thường. Điều này cho thấy đội ngũ giảng viên và nghiên cứu sinh đang tiến bộ cả về lượng lẫn chất”, chuyên gia nhận định.


Thực tế, nhiều nghiên cứu sinh khi bảo vệ luận án đã có công trình, kết quả công bố trên các tạp chí quốc tế WoS/Scopus. Kết quả công bố quốc tế của Việt Nam trong những năm qua đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể, trong đó các cơ sở giáo dục đại học luôn đóng vai trò chủ đạo trong công bố khoa học của cả nước.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ năm 2020 đến nay, số bài báo công bố trên các ấn phẩm Scopus hàng năm đều đạt trên 18.000 bài báo. Đáng chú ý, giai đoạn từ năm 2022 đến tháng 7/2024, chỉ tính riêng 67 cơ sở giáo dục đại học có số lượng công bố nhiều nhất đã chiếm 83,5% số bài của cả nước.
Theo Tiến sĩ Phạm Hiệp, để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ, cần chú trọng đến việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất, minh bạch về kết quả đào tạo. Theo chuyên gia, hệ thống này phải bao gồm đầy đủ luận văn, luận án, công bố khoa học trong và ngoài nước của nghiên cứu sinh.
“Chỉ khi có cơ sở dữ liệu đầy đủ và dễ tiếp cận, chất lượng đào tạo mới được đánh giá khách quan”, Tiến sĩ Phạm Hiệp nói.
Tài liệu tham khảo:
[1]: https://giaoduc.net.vn/bo-gddt-dut-khoat-phai-quan-dao-tao-su-pham-y-te-luat-va-trinh-do-tien-si-post251575.gd