Khó xác định quyền sở hữu sản phẩm khoa học công nghệ là rào cản trong thương mại hóa

26/07/2025 06:24
Ngọc Mai
Theo dõi trên Google News

GDVN - Tài sản hình thành từ NCKH rất khó xác định thuộc sở hữu của ai, nên việc làm rõ tính pháp lý, thủ tục hành chính cũng còn nhiều khó khăn và phức tạp.

Một nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là:

Khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ, đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế… để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát triển nguồn nhân lực.

Theo chia sẻ của lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học, giải pháp trên sẽ góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những khó khăn, rào cản trong hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay.

Tháo gỡ nhiều rào cản trong hoạt động khoa học công nghệ

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) chia sẻ, những khó khăn trong hoạt động khoa học và công nghệ tại các cơ sở giáo dục công lập cơ bản được tháo gỡ khi ban hành Nghị quyết số 57 và Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/10/2025, và một số điều có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025).

thay-hieu.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: NVCC

Theo thầy Hiếu, thứ nhất, trước đây, các quy trình liên quan đến phê duyệt đề tài, giải ngân kinh phí, mua sắm thiết bị,... mang nặng tính kế hoạch hóa, dẫn đến chậm trễ và đôi khi không thể triển khai được. Chưa kể, một trong những rào cản về thủ tục hành chính đó là nội dung khoán chi và không khoán chi vẫn chưa được giải thích một cách cụ thể nên bộ phận quản lý cũng bối rối khi triển khai. Bên cạnh đó, một số đề tài được thực hiện chung với doanh nghiệp từ ngân sách của doanh nghiệp nhưng khi chuyển về tài khoản của nhà trường cũng phải sử dụng theo các quy định của nhà nước, có phần cứng nhắc.

Thứ hai, khuyến khích và thu hút nhân lực nghiên cứu. Thầy Hiếu chia sẻ, việc thu nhập từ các hoạt động khoa học công nghệ còn thấp, thiếu cơ chế chia sẻ lợi ích từ thương mại hóa sản phẩm khiến giảng viên, nhà khoa học chưa thực sự toàn tâm toàn ý cho công tác nghiên cứu và phát triển.

Ngoài ra, sản phẩm của nhiệm vụ khoa học công nghệ được quy là tài sản của nhà nước, cơ chế phân chia lợi nhuận khi triển khai ứng dụng, chuyển giao công nghệ vẫn chưa rõ ràng và việc định giá sản phẩm hình thành từ đề tài cũng gần như bất khả thi nên không có cơ quan quản lý nào tiếp nhận.

Do đó, theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 57 sẽ tháo gỡ được rào cản kể trên, đồng thời tạo động lực khuyến khích và thu hút nhà khoa học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.

Thứ ba, giúp tăng cường liên kết hiệu quả với doanh nghiệp. Bởi, hiện phần lớn các đề tài mang nặng tính hàn lâm, thiếu định hướng ứng dụng hoặc không được kết nối với nhu cầu thị trường. Mặt khác, các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam nhìn chung là doanh nghiệp FDI, không có bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D) hoặc các doanh nghiệp trong nước chưa mặn mà với việc đầu tư về R&D một cách dài hạn và chuyên nghiệp nên thiếu tính kết nối với các viện, trường đại học - "Chính vì thế, việc đưa ra giải pháp nhằm đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ sẽ góp phần tăng cường kết nối giữa cơ sở giáo dục với doanh nghiệp", thầy Hiếu chia sẻ.

Định giá bán sản phẩm KHCN nên giao quyền cho chủ nhiệm đề tài/nhiệm vụ

Để phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học trong cơ sở giáo dục, việc mua sắm công là rất cần thiết. Tuy nhiên, theo chia sẻ của lãnh đạo cơ sở giáo dục, vẫn có nhiều vướng mắc trong hoạt động đấu thầu, mua sắm công phục vụ nghiên cứu khoa học.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Minh - Phó Hiệu trưởng Trường Điện - Điện tử, Đại học Bách Khoa Hà Nội cho biết, nguyên nhân của những khó khăn trong đấu thầu mua sắm công không phải chỉ nằm ở quy định thủ tục mà còn do bản thân các nhà khoa học hầu hết không có đủ chuyên môn và kỹ năng để thực hiện các quy định đấu thầu mua sắm công.

thay-minh.jpg
Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Minh - Phó Hiệu trưởng Trường Điện - Điện tử, Đại học Bách Khoa Hà Nội. Ảnh: NVCC

"Việc đấu thầu đòi hỏi phải có kế hoạch rõ ràng, phải qua nhiều bước như lập kế hoạch, xin phê duyệt, thực hiện đúng tiến độ,... Nhưng thực tế, nhiều nhà khoa học triển khai muộn, đến cuối năm mới bắt đầu làm thì tất nhiên sẽ bị dồn, các phòng ban liên quan cũng quá tải, dẫn đến tình trạng chậm trễ trong nghiên cứu”, thầy Minh chia sẻ.

Trước thực trạng đó, Phó Hiệu trưởng Trường Điện - Điện tử cho rằng, cần thiết phải lập các bộ phận chuyên trách, có nghiệp vụ hỗ trợ nhà khoa học trong việc thực hiện thủ tục đấu thầu, mua sắm công.

“Không nên để các nhà khoa học tự lo hết các phần việc hành chính. Việc này vừa không hiệu quả, vừa dễ sai sót và khiến toàn bộ tiến độ nghiên cứu bị ảnh hưởng”, thầy Minh nói.

Bên cạnh đó, hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật hiện vẫn còn bất cập. Thầy Minh cho hay, các định mức kinh tế kỹ thuật có sự thay đổi nhanh. Trong khi đó, giữa các bên gồm nhà khoa học, bộ phận tài chính, kỹ thuật,... chưa phối hợp chặt chẽ để cùng xây dựng định mức phù hợp và mang tính cập nhật. Đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử - công nghệ, nhiều thiết bị, linh kiện có giá cả biến động rất nhanh, thậm chí có thể ngừng lưu hành trong thời gian ngắn.

Thực tế, khi kế hoạch đấu thầu được lập từ đầu năm với định mức A, nhưng đến lúc thực hiện thì sản phẩm cần mua đã tăng giá, hoặc không còn trên thị trường thì lại buộc phải điều chỉnh lại toàn bộ kế hoạch, dẫn đến kéo dài thời gian, tốn kém nguồn lực. Do đó, thầy Minh cho rằng, cần có cơ chế linh hoạt hơn trong cập nhật định mức kinh tế kỹ thuật. Đồng thời, phải có lực lượng chuyên môn hóa, làm đúng quy trình, hỗ trợ hiệu quả cho đội ngũ nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu.

Cùng chia sẻ, thầy Hiếu nhìn nhận quy trình mua sắm công chưa theo kịp tốc độ phát triển của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo nên cần được tháo gỡ.

Các dự án công nghệ thường đòi hỏi tính nhanh, chính xác và linh hoạt trong việc tiếp cận thiết bị, phần mềm, vật tư đặc thù, trong khi đó quy trình mua sắm công phải thực hiện đúng cả quy định của pháp luật. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ triển khai dự án, khả năng cập nhật công nghệ kịp thời, thậm chí có những dự án bị lỗi thời trước khi đi vào hoạt động vì công nghệ đã thay đổi trong quá trình chờ phê duyệt mua sắm. Và đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đề tài làm xong bị lạc hậu, không được đưa vào khai thác vì bản thân các công nghệ được sử dụng đã lạc hậu.

“Quy trình mua sắm công phức tạp dẫn đến một xu hướng chung là các nhiệm vụ khoa học công nghệ hiện nay chủ yếu chỉ tập trung vào xuất bản các công bố, bài báo khoa học, thực hiện ở cấp độ mô phỏng chứ ít có sản xuất mẫu thử, thực nghiệm. Vậy nên, việc Nghị quyết số 57 đề ra nhiệm vụ, giải pháp nhằm tháo gỡ rào cản trong mua sắm công là hết sức kịp thời”, thầy Hiếu chia sẻ.

Thực tế cho thấy, những vướng mắc trong đấu thầu, mua sắm công kéo theo hệ quả là tỷ lệ thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học còn thấp. Về nội dung này, thầy Minh cho biết, hiện phần lớn kết quả nghiên cứu tại trường đại học dừng ở mức sẵn sàng công nghệ, nghĩa là mới có nguyên mẫu. Để đưa sản phẩm ra thị trường, phải trải qua hàng loạt các bước tiếp theo như thiết kế công nghiệp, chế tạo thử, kiểm thử, đánh giá thị trường,... tốn nhiều thời gian và kinh phí.

“Chúng tôi từng làm một thiết bị IoT. Việc tạo nguyên mẫu chỉ mất vài tháng nhưng để đảm bảo sản phẩm có thể kết nối internet, đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật, chế tạo thực tế thì rất tốn kém”, thầy Minh chia sẻ.

Để sản phẩm có thể thương mại hóa thành công, không chỉ cần đạt độ hoàn thiện kỹ thuật mà còn cần cả đội ngũ vận hành, từ marketing, bán hàng, đến chăm sóc khách hàng - "Những việc này không thể kỳ vọng vào một mình nhà khoa học tự làm, họ cần được hỗ trợ bởi các CEO, nhà khởi nghiệp, nhà đầu tư", thầy Minh chia sẻ.

Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu cho hay, thời gian qua chưa có cơ chế rõ ràng, linh hoạt về định giá tài sản trí tuệ. Việc định giá công nghệ, sáng chế vẫn còn mang tính hình thức, thiếu công cụ và chuyên gia hỗ trợ. Thêm nữa, thông thường tài sản hình thành do nghiên cứu khoa học rất khó xác định thuộc sở hữu của ai, nên việc làm rõ tính pháp lý cũng như thủ tục hành chính còn nhiều khó khăn và phức tạp; chưa có nhiều doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư cho nghiên cứu của giảng viên, đa phần chỉ tập trung học bổng cho sinh viên để thu hút nguồn nhân lực lao động.

Chính vì thế, việc xây dựng cơ chế đặc thù về định giá tài sản trí tuệ và đơn giản hóa quy trình chuyển giao, thương mại hóa là hướng đi cần thiết để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khu vực công lập. Trong đó, việc thương mại hóa, định giá bán đối với sản phẩm hình thành từ nhiệm vụ khoa học công nghệ nên được giao quyền tự quyết cho chủ nhiệm nhiệm vụ và chấp nhận sản phẩm bán được có thể thu về kinh phí thấp hơn so với đầu tư ban đầu.

Cơ chế thuế đặc thù tạo động lực mạnh mẽ cho nghiên cứu và phát triển

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Minh chia sẻ việc tiếp cận với những ưu đãi về thuế không phải đơn giản, nhất là với những doanh nghiệp nhỏ, không có bộ phận pháp lý chuyên trách, không đủ nhân lực, tài chính để theo đuổi hàng loạt thủ tục xin ưu đãi: nộp hồ sơ, chứng minh năng lực công nghệ, tài chính, báo cáo,...

"Hệ thống ưu đãi thuế cho khoa học và công nghệ tuy đã được luật hóa nhưng việc triển khai trên thực tế ra sao còn phải chờ các nghị định, thông tư hướng dẫn được ban hành", thầy Minh bày tỏ.

Hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học luôn được cơ sở giáo dục đại học chú trọng. Ảnh: HUST
Hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học luôn được cơ sở giáo dục đại học chú trọng. Ảnh: HUST

Mặt khác, thầy Hiếu cho biết, trước đây, hoạt động R&D còn chưa rõ ràng, chưa đủ sức hấp dẫn để khuyến khích đầu tư từ doanh nghiệp. Ví dụ như các khoản chi cho R&D khó hạch toán hoặc khấu trừ thuế một cách hợp lý; các viện, trường công lập không có cơ chế khuyến khích từ lợi nhuận hoặc tài sản tạo ra từ nghiên cứu. Tuy nhiên, khi có Nghị quyết số 57 và Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, những khó khăn kể trên đều được tháo gỡ.

“Các khoản chi phí liên quan đến việc phân công công việc, nhân lực, bộ phận thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ đã được đưa vào dạng không tính thuế, đó là một điểm rất tích cực và sẽ thúc đẩy hơn nữa các nhà khoa học chuyên tâm nghiên cứu.

Tuy nhiên, từ góc độ quản lý, tôi cho rằng cần có một cơ chế thuế đặc thù cho R&D, chẳng hạn như khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp với mức cao hơn, thuế suất ưu đãi với doanh nghiệp đầu tư vào chuyển giao công nghệ từ viện, trường đại học. Đồng thời, cần có chính sách miễn giảm thuế cho các công ty khởi nghiệp trong ít nhất 5 năm kể từ khi thành lập”, thầy Hiếu chia sẻ.

Lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học cũng cho rằng, chỉ khi các trường, viện được trao quyền thực sự thì hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo mới phát triển đúng với tiềm năng.

Theo thầy Hiếu, để “giải phóng các nguồn lực” như tinh thần Nghị quyết số 57, cần tập trung vào việc giao quyền tự chủ tài chính thực chất, bằng việc cho phép các viện, trường đại học được chủ động sử dụng nguồn thu từ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ để tái đầu tư, khen thưởng mà không cần phê duyệt từ cấp trên; đơn giản hóa thủ tục sử dụng kinh phí nghiên cứu, đặc biệt với các đề tài cấp cơ sở, cấp bộ hoặc các hợp đồng với doanh nghiệp, cần tách bạch rõ giữa kinh phí từ ngân sách và kinh phí hợp tác, tránh hành chính hóa.

Cùng với đó, cần tạo cơ chế tài chính linh hoạt cho hoạt động R&D, ví dụ như được phép trích lập quỹ phát triển khoa học công nghệ từ các nguồn thu ngoài ngân sách; có thể ứng trước kinh phí nghiên cứu với đề tài tiềm năng cao.

Ngọc Mai