Đề xuất chỉ kiểm định định kỳ CTĐT một số nhóm ngành, lĩnh vực: Chuyên gia băn khoăn

31/07/2025 06:24
Doãn Nhàn
Theo dõi trên Google News

GDVN - Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) đề xuất chỉ kiểm định định kỳ chương trình đào tạo một số nhóm ngành, lĩnh vực.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), trong đó đề xuất thay đổi quy định về kiểm định chất lượng chương trình đào tạo.

Theo dự thảo, chỉ kiểm định định kỳ các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, lĩnh vực sức khỏe, pháp luật; đối với các nhóm ngành, lĩnh vực khác do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định.

Trong khi đó, theo quy định hiện hành bắt buộc kiểm định và đánh giá ngoài tất cả chương trình đào tạo.

Việt Nam đã sẵn sàng cho “tự kiểm định” chương trình đào tạo chưa?

img-4940.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Hảo - Trưởng Bộ phận Học thuật xuất sắc, Trường Đại học Quốc tế Miền Đông. Ảnh: NVCC

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Hảo - Trưởng Bộ phận Học thuật xuất sắc, Trường Đại học Quốc tế Miền Đông nhận định, sự điều chỉnh về hoạt động kiểm định chất lượng chương trình đào tạo lần này xuất phát từ 4 lý do chính.

Thứ nhất, nhiều cơ sở giáo dục đã có ý kiến về việc mất nhiều thời gian và nguồn lực cho việc kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo;

Thứ hai, tỷ lệ các chương trình đào tạo trên cả nước được kiểm định chất lượng trong các năm qua vẫn còn thấp (khoảng hơn 40%). Điều này cho thấy khả năng đáp ứng của hệ thống kiểm định chất lượng còn nhiều khó khăn;

Thứ ba, đội ngũ kiểm định viên còn khiêm tốn về số lượng lẫn chất lượng, nhất là ở một số lĩnh vực đặc thù, vì vậy chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm định chất lượng chương trình đào tạo hiện nay.

Thứ tư, một số quốc gia đã áp dụng có hiệu quả mô hình “tự kiểm định” (self-accreditation) đối với cấp chương trình đào tạo, tiêu biểu như Úc.

“Trong bối cảnh như vậy, đã đến lúc Việt Nam nên điều chỉnh mô hình kiểm định chất lượng đối với cấp chương trình đào tạo theo hướng như dự thảo nêu chưa?”, thầy Hảo đặt vấn đề.

Phó Giáo sư Lê Văn Hảo cho rằng, trong số 4 lý do nói trên, 3 lý do đầu có mối liên hệ lẫn nhau và hoàn toàn có thể được khắc phục dần dựa trên một số giải pháp như: tăng cường chuyển đổi số đối với các hồ sơ, tài liệu phục vụ kiểm định chất lượng; tăng cường đánh giá trực tuyến (trong các hoạt động khảo sát sơ bộ và khảo sát chính thức); tăng chu kỳ kiểm định chất lượng chương trình đào tạo (như đã cho phép tại Thông tư 04/2025/TT-BGDĐT); tiếp tục tổ chức các kỳ thi tuyển chọn, các lớp bồi dưỡng kiểm định viên hằng năm.

Như vậy, câu hỏi còn lại là: Giáo dục đại học của Việt Nam đã đủ điều kiện để áp dụng mô hình “tự kiểm định” đối với cấp chương trình đào tạo hay chưa? Tức Nhà nước sẽ chỉ tập trung kiểm định chất lượng ở cấp cơ sở giáo dục đại học, còn mỗi nhà trường tự tổ chức kiểm soát chất lượng các chương trình đào tạo (trừ một số nhóm ngành đặc thù).

Dẫn trường hợp ở nước Úc - một trong những quốc gia tiêu biểu triển khai hiệu quả mô hình tự kiểm định, Phó Giáo sư Lê Văn Hảo cho rằng có ba điều kiện cốt lõi mà hệ thống giáo dục đại học Úc đã đáp ứng để có thể áp dụng hiệu quả mô hình này:

Một, có hệ thống giáo dục đại học được xây dựng trên nền tảng tự chủ đại học ở mức cao. Theo đó các các cơ giáo dục được toàn quyền quyết định về đội ngũ; nội dung, cách thức thiết kế và triển khai chương trình đào tạo.

Hai, văn hoá chất lượng đã trở thành thói quen trong suy nghĩ và hành động của các thành viên của hệ thống giáo dục đại học.

Ba, có cơ chế kiểm soát chất lượng chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục được tích hợp trong hệ thống chính sách kiểm định chất lượng cấp cơ sở giáo dục (Higher Education Standards Framework đối với Úc).

Đối chiếu với điều kiện thực tế tại Việt Nam, Phó Giáo sư Lê Văn Hảo nhận định chúng ta đang dần hình thành hai yếu tố đầu tiên. Tuy nhiên, yếu tố thứ ba còn nhiều hạn chế.

Nguyên nhân là vì Việt Nam hiện vẫn đang vận dụng gần như nguyên bản bộ tiêu chuẩn của Mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN) - vốn chủ trương đánh giá ở cả cấp trường (cơ sở giáo dục) và cấp chương trình đào tạo.

Do đó, bộ tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục đại học (đặc biệt là phiên bản 3.0 mà Việt Nam đang dùng để cập nhật Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT) có khá ít yêu cầu liên quan đến chất lượng của chương trình đào tạo.

“Việc điều chỉnh mô hình kiểm định chất lượng đối với chương trình đào tạo theo hướng như dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) là phù hợp với thực tế của Việt Nam và xu thế của thế giới, tuy nhiên cần cân nhắc thời điểm triển khai để các yêu cầu có đủ thời gian đáp ứng”, Phó Giáo sư Lê Văn Hảo nhấn mạnh.

Cũng theo thầy Hảo, một khi chuyển sang mô hình mới này, việc xác định các ngành/nhóm ngành đào tạo nào thuộc diện bắt buộc phải kiểm định chất lượng chương trình đào tạo định kỳ sẽ được xem xét phù hợp với bối cảnh tương ứng; bên cạnh việc bắt buộc tham gia kiểm định chất lượng đối với các chương trình đào tạo có các Luật chuyên ngành hoặc Hội nghề nghiệp liên quan có yêu cầu.

Ví dụ như tại Úc, các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành Sức khỏe (theo Luật Hành nghề y tại Úc), và chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành Kỹ thuật (theo quy định của Engineers Australia) sẽ phải kiểm định bắt buộc.

Cần nâng cao hiệu quả thay vì giới hạn phạm vi

gtvt04.jpg
Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung - Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Nam Việt. Ảnh: CEA-SAIGON

Cùng nhìn nhận về vấn đề này, Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung - Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Nam Việt cho rằng, không nên chỉ quy định kiểm định chất lượng định kỳ chương trình đào tạo ở một số nhóm ngành nhất định.

“Bởi lẽ các ngành khác như kinh tế, giao thông vận tải, tâm lý, ngôn ngữ,... đều đóng vai trò nhất định trong phát triển nguồn nhân lực”, bà Dung nhấn mạnh.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung, điều quan trọng hiện nay là làm sao nâng cao hiệu quả thực chất của hoạt động kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Việc kiểm định cần đảm bảo để người học, sinh viên tốt nghiệp và nhà tuyển dụng cảm thấy xứng đáng với chất lượng đầu ra được cam kết.

Bà Dung cũng cho rằng ngoài việc xem xét mở rộng chu kỳ kiểm định từ 5 năm lên 7 hoặc 10 năm, như quy định mới tại Thông tư 04/2025/TT-BGDĐT (chu kỳ kiểm định chương trình đào tạo đã được mở rộng từ 5 năm lên 7 năm ở chu kỳ tiếp theo) thì cũng có thể quy định tỉ lệ chương trình đào tạo bắt buộc phải được kiểm định chất lượng giáo dục.

Dẫn chứng từ kinh nghiệm quốc tế, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung cho biết tại Mỹ, tỷ lệ phần trăm chương trình đào tạo được kiểm định chất lượng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá cơ sở giáo dục. Một trường đại học chỉ được công nhận đạt chuẩn nếu đảm bảo một tỷ lệ nhất định các chương trình đào tạo được kiểm định chất lượng.

ty-le-tuyen-sinh-trinh-do-tien-si-o-cac-khoi-nganh-giai-doan-tu-2020-2024-1.png

Thống kê cho thấy, hiện đã có khoảng hơn 40% chương trình đào tạo ở bậc đại học đã được kiểm định theo kế hoạch, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung đánh giá đây là một kết quả tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn gần 60% các chương trình đào tạo chưa được đánh giá ngoài.

"Rõ ràng, không một trường đại học nào dám kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trong khi họ chưa đáp ứng về những chuẩn tối thiểu trong chương trình. Ví dụ như về tỉ lệ các giảng viên/sinh viên, về nghiên cứu khoa học, về mức độ đáp ứng chuẩn đầu ra của chương trình hay cơ sở vật chất…", bà Dung nói.

Cũng theo bà Dung, trong bối cảnh đầu vào đại học ngày càng rộng mở, việc kiểm soát chất lượng đầu ra lại càng đặc biệt quan trọng.

"Tự chủ đại học không thể tách rời khỏi tính tự chịu trách nhiệm/trách nhiệm giải trình. Nếu một trường được trao quyền tự chủ mà không chịu trách nhiệm với các bên liên quan, đặc biệt là với xã hội về chất lượng đào tạo, thì rất dễ dẫn đến những hệ lụy đáng tiếc", Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung nhấn mạnh.

Khẳng định kiểm định chất lượng là công cụ quản lý hiệu quả của Nhà nước, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung cho rằng việc duy trì một đơn vị kiểm định độc lập là cần thiết. Tuy nhiên, để giảm chi phí và tăng hiệu quả, các trường cần chủ động xây dựng và cung cấp dữ liệu minh bạch, tin cậy.

"Khi các trường xem chất lượng là yếu tố quyết định thì khi đó, việc kiểm định chất lượng sẽ không còn là gánh nặng. Các trường có trách nhiệm xây dựng và cung cấp cơ sở dữ liệu một cách minh bạch, đáng tin cậy, giúp các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục không phải huy động quá nhiều nhân lực hay tốn kém chi phí để rà soát", bà Dung nói.

Từ thực tiễn tại Mỹ giai đoạn 2007-2008, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung chia sẻ cách làm của Ủy ban Kiểm định Vùng Trung Bắc (HLC). Theo đó, bên cạnh cách kiểm định chất lượng giáo dục truyền thống, các trường có thể đăng ký với trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục thực hiện đánh giá hàng năm. Trong đó, các trường cung cấp và cập nhật cho các trung tâm những số liệu quan trọng như tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp, tỷ lệ có việc làm phù hợp trình độ, mức thu nhập, số lượng bài báo khoa học, tổng kinh phí trên đầu sinh viên hàng năm, tổng thu/chi của trường/chương trình đào tạo theo từng năm...theo từng tiêu chuẩn, tiêu chí cụ thể.

“Thông qua các số liệu này, các trường được đánh giá và có thể phát hiện và khắc phục ngay các điểm tồn tại. Chi phí cho công tác kiểm định này có thể chia nhỏ và quan trọng nhất là trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục có thể có các hướng dẫn để giúp các trường bảo đảm chất lượng mà không phải thông qua kiểm định/đánh giá ngoài”, bà Dung gợi mở.

Kiểm định chất lượng giáo dục là động lực cải tiến

sinh-vien-khoa-my-thuat-va-thiet-ke-tham-gia-lop-hoc-trai-nghiem-thuc-te-tai-cong-ty-sconnect.jpg
Ảnh minh họa: Sinh viên Trường Đại học CMC

Chia sẻ thêm, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung khẳng định, từ chính sách yêu cầu các chương trình đào tạo phải được kiểm định chất lượng, trong những năm qua, chúng ta đã học hỏi trên thế giới rất nhiều những mô hình xây dựng chương trình. Trong đó, điển hình là mô hình “ngược”: xuất phát từ chuẩn đầu ra để thiết kế nội dung, phương pháp giảng dạy và đánh giá.

“Kiểm định chất lượng giáo dục là công cụ minh bạch thông tin cho người học, nhà tuyển dụng và xã hội. Đó cũng chính là động lực để các trường không ngừng cải tiến chương trình đào tạo”, bà Dung khẳng định.

Thời gian qua, kiểm định chất lượng chương trình đào tạo đại học tại Việt Nam đã góp phần nâng cao nhận thức và thay đổi cách xây dựng chương trình trong hệ thống giáo dục đại học. Việc tiếp tục duy trì và cải thiện hoạt động này, theo bà Dung, là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng, nhất là trong bối cảnh tự chủ toàn diện.

Khoản 1, Điều 38, Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) có nêu:

Điều 38. Kiểm định chất lượng giáo dục đại học

1. Đối tượng phải thực hiện kiểm định định kỳ bao gồm:

a) Các cơ sở giáo dục đại học;

b) Các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe, pháp luật; đối với các chương trình đào tạo thuộc các nhóm ngành, lĩnh vực khác do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định.

Doãn Nhàn