Chuyện của các cô giáo ở vùng đất khát Lục Khu

02/02/2019 06:29
Trần Phương
(GDVN) - Tết với các cô là bài toán cân đối thu nhập đầy “cân não” bởi chỉ quá tay một chút thôi là ra giêng lấy gì mà tiêu. Không có thưởng, lương lấy hai tháng rồi

Ai lên thăm khu di tích Pắc Pó của huyện Hà Quảng (Cao Bằng) nhìn bên phải tỉnh lộ 208 thấy tua tủa núi đá cao vút, đấy là vùng "Lục Khu" - tên gọi chung 12 xã đặc biệt khó khăn của H.Hà Quảng (Cao Bằng).

Trước đây, nghe đến miền “Lục Khu” là nghe đến vùng đất khét tiếng nơi rừng xanh núi đỏ, nghe tới vùng đá chồm lên đá, nơi mà suốt 8 tháng trong năm “bói không ra giọt nước”.

Nơi mà thầy cô giáo, các em học sinh cùng bà con phải vợi từng can nước bé xíu trong những vũng nước đục ngầu trong vách đá toàn cung quăng, bọ gậy về… ăn. Vì cơn khát đó, nhiều người đã phải bỏ xứ tha hương.

Thế nhưng, đi qua những ngày tháng đó, các cô giáo vẫn bám trụ tại "Lục Khu" để gieo mầm con chữ nơi vùng đá khát.

Trong chuyến công tác cuối năm, chúng tôi đến với xã Lũng Nặm, một xã của "Lục Khu" bằng xe máy. Được các anh bộ đội biên phòng Lũng Nặm giới thiệu, chúng tôi qua thăm trường Trung học cơ sở Lũng Nặm .

Cô Đặng Thị Hồng trò chuyện với phóng viên.
Cô Đặng Thị Hồng trò chuyện với phóng viên.

Quanh bàn trà, chén rượu với các cô giáo ở trường Lũng Nặm, những câu chuyện có lẽ chưa dám tỏ cùng ai....

Trước khi vào câu chuyện, anh Khâm, cán bộ đồn biên phòng đã hỏi thăm cô giáo Điệp, Hiệu trưởng công tác chống hạn như thế nào.

Theo cô Điệp thì tất cả những gì có thể đựng được nước cũng đã sử dụng hết. Những gì không cần thiết cũng khóa lại hết.

Dù đã có điều kiện hơn nhưng bước vào mùa khô là các cô, các thầy ở Lũng Nặm đều phải chuẩn bị rất kỹ cho việc trữ nước.

Chuyện của các cô giáo ở vùng đất khát Lục Khu ảnh 2Mức lương tối thiểu của giáo viên phải cao hơn mức lương tối thiểu vùng

Bắt đầu câu chuyện, cô giáo Đặng Thị Hồng, giáo viên trường Trung học cơ sở Lũng Nặm, người đã có 9 năm gắn bó với các trường trong Lục Khu, 9 năm gắn bó cũng là 9 năm cô Hồng bám đá khát vì học sinh vùng khó.

“Khó khăn kể ra thì nhiều lắm anh ạ. Bây giờ kể lại nghe chuyện cứ như huyền thoại ấy. Bây giờ đời sống khá hơn đôi chút rồi.

Cô trò có trường, có lớp, đường đi cũng đã  được bê tông hóa đầy đủ. Đời sống bà con cũng đã được nâng cao”, cô Hồng tổng kết lại quãng đường 9 năm mình đã đi qua trên vùng đất khát.

Thế nhưng, với các cô giáo, dù gì cũng là những phụ nữ chân yếu tay mêm nên vượt qua những con đèo cao vút, những khúc cua tay áo từ ngã tư Đôn Chương vào đến Lũng Nặm là cả một hành trình chẳng dễ dàng.

Nắng rát, mưa trơn, sương mù lạnh giá chẳng ngày nào các cô không vượt qua.

“Với các anh bộ đội biên phòng đồn là nhà thì chúng em cô giáo vùng Lục Khu này thì trường là nhà rồi các anh ạ. Em giờ đưa cả con nhỏ lên đây học luôn”. Cô giáo Hồng chia sẻ.

Chuyện tiền thưởng Tết dường như là điều gì đó khó nói với các cô giáo ở vùng Lục Khu.
Chuyện tiền thưởng Tết dường như là điều gì đó khó nói với các cô giáo ở vùng Lục Khu.

Nói về kỷ niệm với học trò cô Hồng cho biết, kỷ niệm thì nhiều lắm khó kể hết nhưng cô Điệp, Hiệu Phó nhà trường bảo cô Hồng đang khỏe nhất trường khi tuy bé như vậy mà bế không ít học sinh lớp 9.

Chúng tôi ngạc nhiên, cô Hồng giải thích với học sinh lớp 9 ở vùng cao, tuổi dậy thì, tâm sinh lý của các em có nhiều biến đổi, nhiều em hay bị ngất trong khu bán trú của nhà trường. Do cô Hồng gần gũi với các học trò nên trở thành người bạn với các em.

 “Mình có gần gũi với các em thì các em mới tâm sự với mình. Nhiều vấn đề tâm, sinh lý tuổi mới lớn mình cũng phải đặt mình vào hoàn cảnh của các em nên mới hiểu hết được các anh ạ”. Cô Hồng chia sẻ.

“Làm bạn với học sinh nhưng mà người thì bé thế này nhưng các em ngất, mệt thì nhất định cứ phải cô Hồng bế xuống mới chịu cơ”. Cô Hồng dí dỏm.

Chuyện của chúng tôi cứ thế trôi đi với câu chuyện về học trò vùng cao. Những chuyện cười ra nước mắt với những cách viết thư cho cô giáo, thầy giáo chỉ dùng duy nhất ký tự “i”.

Thày giáo các em cho thành “Thài” giáo hết…. Kể cả các cô dạy văn ngồi đó mà không hiểu sao dạy hoài học trò không nhớ.

Không chỉ một mà nhiều thế hệ học trò đều mắc phải lỗi khó hiểu như vậy. Câu chuyện của chúng tôi trùng xuống khi nhắc một chút về thưởng tết.

Nhiều năm nay, chẳng bao giờ các cô được thưởng tết, mà tết về các cô sẽ được hưởng 2 tháng lương. Lúc đó là một căn ke, tính toán đến nao lòng về việc chi tiêu thế nào để ra giêng không bị đói.

"Với các cô có chồng làm nghề khác còn giúp đỡ được đôi chút nào đó còn với các cô mà hai vợ chồng cùng nghề, cùng huyện thì vất vả lắm", cô Điệp chia sẻ.

Những ngày Lũng Nặm chìm trong sương lạnh, miền biên thùy buốt giá, khát khô nhưng chẳng thể ngăn bước các cô.
Những ngày Lũng Nặm chìm trong sương lạnh, miền biên thùy buốt giá, khát khô nhưng chẳng thể ngăn bước các cô.

“Hôm nọ ở Hà Quảng có hội chợ, con bảo muốn đi hôi trợ mà trong túi có 2 trăm ngàn chẳng dám cho con đi”. Cô giáo Hồng chia sẻ.

Ngoài cô Hồng, cô Điệp, cô Hạ những cô ngồi với chúng tôi trong câu chuyện quanh ấm trà cũng kể ra đủ những câu chuyện về việc sử dụng tiền 2 tháng lương ấy như thế nào cho hợp lý.

Bỗng các cô bàn nhau về một năm nào ấy, không nhớ lắm nhưng được thưởng 100.000 đồng, với các cô, như thế cũng vui rồi.

Cô Điệp bảo, người ta nói “mười đồng tiền công không bằng một đồng tiền thưởng”, các chị cũng mong lắm ấy, nhưng…

Không chỉ chuyện cô Hồng, cô Điệp, cô Hạ, ở "Lục Khu" vùng khó này còn có những thầy cô giáo ở tỉnh xa, nhiều cô nhớ nhà nhưng chẳng dám về ở lại với trường, ở lại với bà con để mong Tết qua đi thật nhanh… Có lẽ chuyện không có tiền thưởng là chuyện quá đỗi bình thường với các cô.

Với các cô giáo vùng cao ở "Lục Khu", tiền thưởng như một vấn đề nào đó quá xa xăm.

Trần Phương