Giả thiết lịch sử mới: Hùng Vương thứ 18 là người cho xây thành Cổ Loa

12/01/2013 06:07
Theo song moi
Từ lâu, trong các trang sách sử Việt của nhiều thế hệ vẫn cho rằng thành Cổ Loa được xây dựng dưới thời An Dương Vương sau khi chiếm được nước Văn Lang. Thế nhưng một giả thiết mới đây đã cho rằng Hùng Tuyền Vương, vị vua thứ 18 thời các vua Hùng, mới chính là người cho xây Loa Thành và chế tạo Nỏ thần.
Theo Kienthuc.net, GS. Ngô Đức Thọ, một chuyên gia Hán nôm, đã dịch trọn vẹn “Ngọc phả Hùng Vương” và thông qua ông Phan Duy Kha đưa ra giả thiết mới kể trên.
Chỉ cần gõ Google tìm hiểu về sự tích thành Cổ Loa, trong 0, 43 giây đã cho 562.000 kết quả. Vì thế, khi công bố những thông tin này, ông Phan Duy Kha đã rất thận trọng tìm hiểu trong hơn một năm trời, thậm chí, ông còn cẩn thận yêu cầu GS. Ngô Đức Thọ ký tên lên những chỗ dịch từ bản Hán Nôm sang bản dịch, cốt để thực sự trung thành với văn bản, chứ không phải công bố thông tin nhằm gây sốc.
Theo bản dịch của GS. Thọ, “Ngọc phả Hùng Vương” có ghi: Việc xây thành Cổ Loa và chuyện Rùa Vàng bày cho vua cách xây thành, cũng như hành động Rùa Vàng rút móng tặng vua làm lẫy nỏ đều xảy ra dưới thời Hùng Tuyền Vương, hay còn gọi là Hùng Vương thứ 18, (sử sách của ta thường chép là Hùng Duệ Vương).


Câu chuyện dưới đây được Ngọc phả ghi lại là những sự kiện xảy ra dưới thời Hùng Tuyền Vương: "Hùng Tuyền Vương cai quản đất nước 115 năm, rồi nhường ngôi cho con rể là Sơn Tinh Tản Viên. Sơn Tinh đã từ chối, không dám nhận. Tuyền Vương phán bảo:
-  Cơ đồ họ Hùng đã hết, khanh có thể lên thay.
Trong khi Tản Viên còn do dự chưa quyết thì Thục Vương, là chúa phụ đạo nước Ai Lao, cũng thuộc tông phái Hùng Vương, nghe tin Tuyền Vương nhường ngôi cho Tản Viên, mặc dù xa xôi nhưng ngay lập tức đã đem quân sang đánh Tuyền Vương để xâm chiếm nước Nam.
Tuyền Vương binh hùng tướng mạnh, Thục Vương mấy lần bị đánh bại. Tuyền Vương đã coi thường đối thủ và nói với Thục Vương: "Ta có sức thần, Thục Vương không sợ sao?".
Và kể từ đó, Tuyền Vương chủ quan, bỏ bễ, không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Trong khi quân Thục vẫn miệt mài đánh và kéo đến tận nơi, vua vẫn say mềm chưa tỉnh. Trong hoàn cảnh này, quân lính dưới trướng Tuyền Vương đã trở giáo, quay đầu hàng Thục.
Thua trận, Hùng Vương bèn đắp thành ở Việt Thường rộng nghìn trượng, có hình tròn dạng con ốc, gọi là Loa Thành. Ban đầu, thành đắp đến đâu đổ đến đấy. Bỗng nhiên, một hôm, Rùa Vàng nổi lên trên sông từ phía đông bơi đến, xưng là Giang Sứ. Tuyền Vương cho đó là sự lạ bèn lấy mâm vàng đặt rùa lên, rồi hỏi rùa vì cớ gì mà thành xây mãi mà vẫn cứ đổ. Rùa Vàng cho hay: "Đó là do quỷ hại. Phải trừ tinh khí của nó đi thì thành tự nhiên đắp xong". (Trong sử sách ghi về chuyện vua Thục thì lại cho đây là tinh gà trắng chứ không phải tinh quỷ).
Tuyền Vương làm theo lời Rùa Vàng, trừ được tinh quỷ thì quả nhiên, sau nửa tháng, thành đắp xong. Trước khi tạ từ ra đi, Rùa Vàng bèn rút một chiếc móng đưa cho Tuyền Vương để làm lẫy nỏ bảo vệ thành. "Tuyền Vương bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, dùng chiếc vuốt thiêng làm máy, lấy tên là "Linh hoa kim trảo thần nỗ".
Sau khi vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán đã tặng luôn vua Thục chiếc nỏ thần, có lẫy làm bằng móng rùa. Ở thời đó, Nỏ thần được coi như một loại trang bị kỹ thuật hiện đại nhất, thứ vũ khí cực kỳ lợi hại vào thuở ấy.
Những chi tiết như Rùa Vàng giúp xây thành là khó có thể tin được. Ngay cả chuyện Hùng Vương 18 gả con gái gây ra cuộc chiến Sơn Tinh – Thủy Tinh cũng chỉ là truyền thuyết. Thế nhưng thành Cổ Loa và công cuộc chống ngoại xâm biểu hiện qua việc chế tạo Nỏ thần là những sự thật rành rành. Cũng hiển nhiên như việc ai được cho là người chủ trương xây thành Cổ Loa và chế tạo Nỏ thần thì cũng đều thông qua bàn tay của kiến trúc sư Cao Lỗ, một nhân vật được nhân dân tôn kính là danh tướng kiệt xuất và anh hùng sáng tạo.
Ngọc phả Hùng Vương tên đầy đủ là “Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyện”. Mang nghĩa là: Ngọc phả cổ truyền về 18 đời vua Thánh triều Hùng nước Việt cổ.
Ngọc phả gồm 21 tờ, 42 trang chữ Hán tổng cộng gần 10.000 chữ. Do Nguyễn Cố, Hàn lâm viện trực học sĩ phụng soạn năm Hồng Đức nguyên niên (1470). Sau đó được Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính vào ngày tốt tháng 10 mùa đông Canh Tý, Hoằng Định nguyên niên (1600). Do Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao. Bản sao lưu tại nhà quan lang phụ đạo con cháu Hùng Vương, cha truyền con nối là dân tạo lệ xã Nghĩa Cương và là Giám thôn Trung Nghĩa. Bản này hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ.
Theo song moi