Ngày 26/11, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã có công văn số 116 góp ý với Bộ GD&ĐT về “cải thiện môi trường đầu tư trong giáo dục”.
Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam nhận công văn số 4683/BGDĐT-GDĐH ngày 14/9/2015 về góp ý về nội dung môi trường đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý.
Văn bản này của quý bộ gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo đó, Chính phủ giao Bộ GD&ĐT chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương thực hiện hai nhóm giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực của các cơ sở giáo dục và đạo tạo, đó là:
Thứ nhất, rà soát, hoàn thiện các thủ tục, điều kiện thành lập, hoạt động đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các trường đại học hàng đầu quốc tế mở cơ sở đào tạo ở Việt Nam, đặc biệt là các cơ sở hoạt động không vì mục đích lợi nhuận;
Thứ hai, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền bãi bỏ các thủ tục, điều kiện bất hợp lý, không còn cần thiết; bổ sung, sửa đổi và đơn giản hóa, giảm chi phí tuân thủ đối với các thủ tục, điều kiện còn lại theo hướng khuyến khích và tạo thuận lợi hơn cho tư nhân trong nước, nước ngoài và các tổ chức xã hội tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục, đào tạo.
Sách VNEN không có bán, thư viện không có cho mượn, mất sách là thảm họa(GDVN) - Nói thật là, không có sách giáo khoa thì về nhà học hành kiểu gì. Lo lắng quá nên tôi nhờ thầy, cô mua hộ sách đó nhưng thầy cô bảo không có để mua. |
Mở rộng quyền tự chủ tuyển sinh, tự chủ tài chính, tự chủ về chương trình, nội dung đào tạo và khảo thí cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung ứng dịch vụ giáo dục, đào tạo theo cơ chế thị trường gắn với việc kiểm soát chặt chẽ chất lượng và đầu ra.
Những chỉ đạo trên rất rộng , Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đưa ra một số ý kiến sau:
Đối với nhóm việc thứ nhất. Nội dung chính là rà soát, hoàn thiện các văn bản hiện có, bãi bỏ các thủ tục, điều kiện bất hợp lý, không còn cần thiết; bổ sung, sửa đổi và đơn giản hóa theo hướng khuyến khích và tạo cung ứng dịch vụ giáo dục, đào tạo.
Về những việc này, các trường đại học, cao đẳng là đối tượng điểu chỉnh của các quy định pháp luật có liên quan. Từ thực tế hoạt động, các đơn vị này sẽ phản hồi chính xác những gì đã thực hiện được, những gì chưa thực hiện được để Bộ GD&ĐT có căn cứ thực hiện tốt NQ-19.
Đối với nhóm việc thứ hai. Nội dung chính ở đây là tạo điều kiện thuận lợi cho cho các trường trong việc cung ứng dịch vụ giáo dục, đào tạo theo cơ chế thị trường gắn với việc kiểm soát chặt chẽ chất lượng và đầu ra, cụ thể là: (1) tự chủ tuyển sinh, (2) tự chủ tài chính, (3) tự chủ về chương trình, nội dung đào tạo và khảo thí cho các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Về vấn đề tự chủ tuyển sinh. Năm nay Bộ đã tổ chức kỳ thi trung học phổ thông (THPT) nhằm đánh giá kết quả THPT và làm căn cứ xét tuyển vào đại học cao đẳng. Việc này, Chính phủ đã có kết luận. Hiệp hội có một văn bản riêng đóng góp với quý bộ để làm tốt hơn kỳ thi THPT cho những năm tiếp theo.
Về tự chủ tài chính. Đây là điểm mấu chốt khiến các nhà trường sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhà trường đồng thời huy động các nguồn lực của xã hội cho phát triển con người, cơ sở vật chất…những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đại học.
Nối tiếp NQ-19 Chính phủ đã có Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017 (NQ-77).
Ảnh minh họa. Xuân Trung |
Theo đó, các trường đại học công lập (ĐHCL) được Nhà nước giao toàn bộ tài sản sẵn có của Nhà nước để “tự quyết định ” mọi hoạt động với điều kiện tiên quyết là “tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư”.
Bên cạnh đó Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (NĐ-16) và Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22/6 năm 2015 về chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần (QĐ-22).
Chính phủ đã nhấn mạnh “Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo thì đẩy mạnh hoạt động theo cơ chế tự chủ, tiến tới tự chủ hoàn toàn, hạch toán như doanh nghiệp…”. Như vậy, một chính sách “khoán quản” đối với giáo dục được Chính phủ hoạch định.
Hiệp hội các trường đại học cao đẳng Việt Nam nhận thấy, nếu tổ chức triển khai tốt các chủ trương trên sẽ cải thiện cơ bản môi trường đầu tư trong giáo dục đại học theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, tạo bước đột phá để trấn hưng giáo dục đại học.
Tại Nghị định 16, Chính phủ đã quy định lộ trình tính giá dịch vụ công gắn với các mốc thời gian 2016, 2018 và 2020. Theo đó, đến năm 2020 các đơn vị sự nghiệp công lập (trong đó có các ĐHCL) phải “tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định”.
Tuy vậy, trong “Nhiệm vụ trọng tâm của khối đại học, cao đẳng năm học 2015-2016” Bộ GD&ĐT mới chỉ nhắc nhở các trường “cần xây dựng lộ trình tự chủ tài chính để có nguồn thu chi trả tiền lương và chi phí trực tiếp, chi phí quản lý, chi phí khấu hao”.
Về tự chủ về chương trình, nội dung đào tạo và khảo thí. Nhóm việc này được Bộ GD&ĐT đã tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ ban hành nhiều văn bản luật, dưới luật. Mặt khác, theo thẩm quyền, Bộ GD&ĐT đã ban hành các văn bản có liên quan.
Nhờ thế, đã hình thành một hành lang pháp lý dẫn dắt các trường đại học, cao đẳng từng bước hoạt động có hiệu quả trong môi trường kinh tế mới (nền kinh tế thị trường). Tuy vậy, chúng ta đều thừa nhận vấn đề chất lượng đào tạo đang rất nan giải.
Thách thức này chỉ có thể giải quyết khi chúng ta chấp nhận các quy luật khách quan, dám nhìn thẳng vào sự thật, nhất là việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học, cao đẳng, việc bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh, việc hoàn chỉnh một hệ thống đảm bảo chất lượng ở cấp quốc gia theo theo thông lệ quốc tế.
Một số vấn đề đang đặt ra
Hiệp hội các trường đại học cao đẳng Việt Nam nhận thấy trong thập niên vừa qua, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương chính sách quan trọng chứa đựng những quy định tác động trực tiếp đến môi trường đầu tư vào giáo dục.
Ví dụ Luật Gíao dục (Luật GD), Luật Gíao dục đại học (Luật GDĐH), Luật Gíao dục nghề nghiệp (Luật GDNN), NQ-77, Nghị định số 141/2013/NĐ-CP (NĐ-141), Điều lệ trường đại học, NĐ -16, QĐ-22…
Quốc hội đã có quyết định hợp lòng dân(GDVN) - Quốc hội đã lắng nghe ý kiến các nhà khoa học, nhân dân, các cực chiến binh và đã nhận thấy những bất cập của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể". |
Đặc biệt Chính phủ đã chú trọng việc phát huy tiềm lực của khối tài sản công khổng lồ và tiềm lực con người ở các trường đại học, cao đẳng công lập, một lực lượng bao gồm khoảng 85% quy mô người học, người dậy và đang thụ hưởng gần như toàn bộ ngân sách đầu tư công của Nhà nước vào khu vực giáo dục đại học.
Những văn bản quy phạm pháp luật nêu trên phần lớn đã đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, từ hoạt động thực tế, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam nhận thấy một số vấn đề dưới đây:
Có những chủ trương bất hợp lý, không còn cần thiết và thuộc thẩm quyền của Bộ GD&ĐT, được lãnh đạo Chính phủ có ý kiến bằng văn bản nhưng vẫn không được Bộ kịp thời chỉnh sửa. Thông tư 61/2012/TT-BGDĐT ngày 28/12/2012 là ví dụ.
Có những chủ trương lớn của Chính phủ chưa được đa số cán bộ chủ chốt của các cơ sở giáo dục đại học thấu hiểu và hưởng ứng.
Ví dụ, chủ trương trao quyền tự chủ triệt để cho các trường đại học công lập tại NQ-77 đã ra đời hơn một năm mà mới chỉ có 12 trường đăng ký thực hiện, trong khi đó, một số lãnh đạo ở một số trường vẫn lo ngại và đặt ra những câu hỏi mà Chính phủ đã có những giải pháp cụ thể ở một số văn bản quy phạm pháp luật.
Có những khác biệt biểu lộ sự không nhất quán, sự không thống nhất của hành lang pháp luật. Đọc Luật GD, Luật GDĐH, NĐ-16 và một số văn bản liên quan cho phép nhận ra rằng quyền sở hữu tài sản tại Luật GD (Điều 67) bị điều chỉnh bởi Luật GDĐH (Điều 66), những định chế về tài chính, quản trị đối với trường đại học công có chung nguyên lý như đối với trường đại học tư thục (Luật GDĐH, NĐ-141, NQ-77, NĐ-16 và Điều lệ trường đại học) và rất khác biệt với Luật doanh nghiêp.
Trong khi đó, NĐ-16 khẳng định chủ trương “chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công sang đơn vị sự nghiệp ngoài công lập hoặc doanh nghiệp (Điều 4) và “đơn vị sự nghiệp công bảo đảm chi thường xuyên được vận dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp” (Điều 21).
Mới đây, trên diễn đàn Quốc hội (18/11/2015) một lần nữa Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh “chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp và chuyển từ cơ chế cấp phát sang đặt hàng, từ hỗ trợ cho các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính sách được thụ hưởng”.
Nhưng khác biệt nêu trên làm phân tâm các nhà đầu tư, níu kéo chủ trương xã hội hóa giáo dục. Chúng tôi sẽ đi sâu vào việc này vào dịp phù hợp.
Một số quy định dẫn đến những phức tạp không đáng có về hành chính. Thủ tục chuyển trường đại học dân lập sang hoạt động theo mô hình trường đại học tư thục không vì lợi nhuận là một ví dụ (xin Bộ nhìn lại trường hợp Trường đại học dân lập Phú Xuân).
Vấn đề chưa bình đẳng giữa các đơn vị công lập và đơn vị ngoài công lập còn đậm nét. Xin ví dụ: (1) Trường công, trường tư đều làm một nhiệm vụ đào tạo nhân lực cho xã hội, nhưng hoạt động này của trường tư phải chịu thuế; (2) Cùng một hoạt động “tự lo được chi thường xuyên và chi đầu tư”, nhưng trường đại học công được “tự chủ, tự chịu trách nhiệm tòan diện”, còn trường đại học tư chưa được như vậy.
Bốn kiến nghị
Để thực cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực giáo dục theo tinh thần NQ-19, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam xin có một số kiến nghị với Bộ Giáo dục và Đào tạo:
Kịp thời tổng hợp ý kiến đóng góp của các trường đại học cao đẳng, các cơ quan có liên quan, phân tích tiếp thu và theo thẩm quyền bãi bỏ các thủ tục, điều kiện bất hợp lý, không còn cần thiết.
Tăng cường quán triệt tinh thần NĐ-16 và NQ-77 của Chính phủ, kịp thời xây dựng Đề án đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc bộ theo tinh thần hai văn bản trên, đưa tỷ lệ trường đại học công thực hiện NQ-77 lên ít nhất 20% vào cuối 2017; làm rõ lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công đối với các cơ sở giáo dục đại học theo Điều 10 của NĐ-16, xem đây là nhiệm vụ bắt buộc.
Nghiên cứu, quy định các tiêu chí cần thiết, thực hiện công khai minh bạch năng lực tự chủ và trao quyền tự chủ “về thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học” cho các các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập theo tinh thần NQ-77.
Chỉ đạo tập trung nghiên cứu đối chiếu các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực giáo dục với chủ trương của Đảng, các luật liên quan (Luật dân sự, Luật Doanh nghiệp vv..) từng bước hoàn thiện các mô hình quản trị đại học gắn với đầu tư và sở hữu, bảo đảm minh bạch, cạnh tranh bình đẳng cho các trương đại học, cao đẳng.