Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 71-NQ/TW). Một trong những nhiệm vụ, giải pháp được đặt ra là: Hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.
Đối với đào tạo tiến sĩ, Nghị quyết nêu: “Tăng cường quản lý chất lượng gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp đối với đào tạo tiến sĩ, quy định chặt chẽ việc học tiến sĩ đối với cán bộ, công chức”.
Chế độ hỗ trợ kinh phí cho nghiên cứu sinh vẫn còn hạn chế
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên cho biết, trong 3 năm trở lại đây, quy mô đào tạo tiến sĩ của trường đã có sự tăng trưởng rõ rệt.
Cụ thể, năm 2023 nhà trường tuyển được 5 nghiên cứu sinh, năm 2024 có 8 nghiên cứu sinh và tính đến tháng 8/2025 đã có 8 nghiên cứu sinh trúng tuyển.
Quy mô đang đào tạo năm 2023 là 15 nghiên cứu sinh, năm 2024 tăng lên 22 nghiên cứu sinh và đến tháng 8/2025 đã đạt 30 nghiên cứu sinh.
Về đội ngũ cán bộ, giảng viên hiện nay, trường có 95 tiến sĩ, trong tháng 9/2025 sẽ bổ sung thêm 15 tiến sĩ (bao gồm nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án và giảng viên được tuyển dụng theo chế độ thu hút), nâng tổng số lên 110 tiến sĩ.
Thầy Nghĩa nhận định: “Việc quy định chặt chẽ đào tạo tiến sĩ đối với cán bộ, công chức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ giúp giảng viên nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy, mà còn tạo nền tảng cho hội nhập và đổi mới sáng tạo.
Đội ngũ tiến sĩ là lực lượng nòng cốt dẫn dắt hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Với nhà trường, đầu tư cho đội ngũ tiến sĩ là một chiến lược lâu dài: vừa bảo đảm chuẩn kiểm định chất lượng, phát triển các chương trình đào tạo tiên tiến, vừa góp phần nâng cao vị thế và uy tín của nhà trường trong hệ thống giáo dục đại học trong nước và khu vực”.

Cũng theo thầy Nghĩa, hiện nay, công tác đào tạo tiến sĩ đang đối mặt với 2 thách thức lớn. Về đội ngũ hướng dẫn, dù nhà trường đã có giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ trong nhiều lĩnh vực, nhưng chuyên môn vẫn còn phân mảnh, chưa đủ bao quát hết các lĩnh vực công nghệ chiến lược.
Bên cạnh đó, các nhóm nghiên cứu mạnh cũng chưa hình thành đồng bộ. Điều này đặt ra yêu cầu nhà trường phải tăng cường hợp tác với chuyên gia trong và ngoài nước để nâng cao chất lượng đào tạo nghiên cứu sinh, vừa mở chiều rộng (bao quát lĩnh vực), vừa đi vào chiều sâu (phát triển lab nghiên cứu chuyên sâu).
Về kinh phí hỗ trợ, với nghiên cứu sinh là cán bộ của trường, nhà trường đã có cơ chế hỗ trợ riêng. Tuy nhiên, với nghiên cứu sinh nói chung thì hiện nay nguồn lực tài chính để tài trợ học bổng, hỗ trợ nghiên cứu vẫn còn hạn chế. Điều này đòi hỏi nhà trường phải đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp, kết nối với các quỹ R&D để huy động thêm nguồn tài trợ cho nghiên cứu sinh.
Cùng bàn về vấn đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Mai Thanh Phong - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh cho biết, ở Việt Nam, việc đào tạo sau đại học (bao gồm đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ) phần lớn diễn ra dưới hình thức bán thời gian.
Học viên cao học thường học vào buổi tối hoặc cuối tuần, nghiên cứu sinh chủ yếu vừa đi học vừa đi làm khiến việc nghiên cứu chưa được đầu tư đúng mức về thời gian và chiều sâu. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả đào tạo mà còn khó thu hút những cá nhân thực sự có đam mê và năng lực nghiên cứu.
Mặt khác, hiện nay phần lớn học viên sau đại học đều phải tự chi trả học phí, gần như không được hưởng học bổng nên nhiều trường hợp, người học chỉ theo đuổi tấm bằng, thay vì hướng tới nghiên cứu chuyên sâu và đóng góp cho khoa học.
Riêng ở bậc tiến sĩ, người học vừa phải đóng học phí, vừa tự chi trả nhiều chi phí nghiên cứu, nhất là trong các ngành kỹ thuật, công nghệ. Nếu giảng viên hướng dẫn không có dự án hay nguồn kinh phí hỗ trợ, gần như toàn bộ chi phí này đều do nghiên cứu sinh tự chi trả.
Trong khi đó, nhiều quốc gia trong khu vực như Hàn Quốc, Trung Quốc đang tích cực thu hút nghiên cứu sinh quốc tế, trong đó có sinh viên Việt Nam bằng chính sách học bổng. Thực tế đó khiến việc thu hút nghiên cứu sinh trong nước rất khó khăn, những người có năng lực thường lựa chọn ra nước ngoài để đào tạo tiến sĩ.

Thầy Phong cho biết thêm: “Theo Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định, tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ. Tuy nhiên, nhiều trường hiện nay vẫn chưa đạt tỷ lệ này.
Như vậy, ở nước ta, số lượng tiến sĩ có vẻ dồi dào nhưng tại các viện nghiên cứu và trường đại học, tỷ lệ tiến sĩ trên giảng viên vẫn ở mức thấp”.
Cũng theo thầy Phong, tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ hiện đạt gần 70% giảng viên, thuộc nhóm cao trong các cơ sở giáo dục đại học trong nước.
Đối với những cán bộ, giảng viên chưa đạt trình độ tiến sĩ, nhà trường có chủ trương khuyến khích, cử đi đào nâng cao. Đây là chính sách nhất quán, được nhà trường áp dụng từ lâu. Tuy nhiên, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ vẫn chưa được tăng lên rõ rệt.
Nguyên nhân là sau khi nhà trường liên kết với đối tác nước ngoài, cử giảng viên, sinh viên xuất sắc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ thì phần lớn những người được cử đi đào tạo đều lựa chọn ở lại nước ngoài làm việc. Trong khi đó, số lượng tiến sĩ, giáo sư lớn tuổi nghỉ hưu ngày càng nhiều, lực lượng ít giảng viên trẻ được đào tạo tiến sĩ về nước chỉ bù đắp được một phần nhỏ, khiến tỷ lệ tiến sĩ trong trường tăng rất chậm.
Bên cạnh đó, số lượng nghiên cứu sinh được đào tạo trong nước còn thấp. Nhà trường tuy có chính sách hỗ trợ học phí, nhưng nguồn dự án, đề tài nghiên cứu còn hạn chế, người học vẫn chịu nhiều thiệt thòi.
“Đây là điều đáng tiếc, bởi vô hình trung các giảng viên có năng lực nghiên cứu và đủ khả năng hướng dẫn nghiên cứu sinh lại thiếu học trò, không có nhân lực và cũng không tích lũy được kinh nghiệm”, thầy Phong bày tỏ.
Trong khi đó, Tiến sĩ Lê Ngọc Sơn - Viện trưởng, Viện Đào tạo Quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, việc cán bộ, viên chức đạt trình độ tiến sĩ là rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo.
Trình độ tiến sĩ không chỉ thể hiện năng lực chuyên môn sâu, mà còn là nền tảng để giảng viên phát triển tư duy đổi mới, năng lực nghiên cứu, giải quyết vấn đề phức tạp và đóng góp cho sự phát triển khoa học công nghệ của đất nước. Đối với cơ sở giáo dục đại học như nhà trường, đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là trong công tác đào tạo sau đại học, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
“Trong 3 năm gần đây, quy mô đào tạo trình độ tiến sĩ tại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã có sự tăng trưởng rõ rệt, chất lượng đầu vào ngày một nâng cao.
Tính đến thời điểm hiện tại, tổng quy mô đào tạo tiến sĩ của trường là 350 nghiên cứu sinh với 10 ngành đào tạo ở cả khối kỹ thuật và kinh tế.
Về đội ngũ giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ, hiện nhà trường có trên 475 tiến sĩ, trong đó có 87 phó giáo sư và 24 giáo sư, cùng với hàng trăm giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ là chuyên gia trong và ngoài nước tham gia giảng dạy, hướng dẫn, nghiên cứu tại trường.
Đối với cán bộ, viên chức chưa đạt trình độ tiến sĩ, nhà trường có chính sách hỗ trợ giảm 50% khối lượng công việc chuyên môn và hỗ trợ 100% học phí. Bên cạnh đó, mỗi năm, nhà trường có từ 15-20 giảng viên được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư, góp phần tăng cường năng lực đào tạo và nghiên cứu trình độ cao”, thầy Sơn cho biết.

Cần có chính sách hỗ trợ tài chính dài hạn cho cán bộ, công chức đi học tiến sĩ, gắn với cam kết phục vụ sau đào tạo
Theo Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trong bối cảnh đất nước cần những bước đột phá về khoa học công nghệ, việc tăng cường đội ngũ tham gia nghiên cứu về cả số lượng và chất lượng là hết sức cần thiết.
Để phát triển đội ngũ tiến sĩ chất lượng cao, Nhà nước cần có chính sách về học phí và học bổng cho nghiên cứu sinh. Các dự án hoặc đề tài nghiên cứu cần có nguồn kinh phí dành riêng để chi trả cho nhân lực tham gia. Hiện nay, đề tài cấp Nhà nước có cấp kinh phí cho nhân công nhưng chủ yếu theo hình thức khoán từng nhiệm vụ, mức chi trả chưa tương xứng. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng để hỗ trợ trực tiếp cho nghiên cứu sinh.
Bên cạnh đó, việc đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo cũng cần được quan tâm. Trước hết, Nhà nước cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đặc biệt là hệ thống phòng thí nghiệm, trang thiết bị thực hành và nghiên cứu. Nếu thiếu phòng thí nghiệm hiện đại, trang thiết bị đạt chuẩn, chất lượng nghiên cứu nói chung và đào tạo tiến sĩ nói riêng sẽ khó được đảm bảo.
Thầy Phong chia sẻ: “Tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, thu nhập của giảng viên gần đây đã được nâng lên. Nhờ đó, trong đợt tuyển dụng vừa qua, có những ngành nhà trường chỉ tuyển 4-5 giảng viên nhưng nhận được gần 20 hồ sơ ứng tuyển, phần lớn là tiến sĩ tốt nghiệp từ nước ngoài. Đây là tín hiệu tích cực, cho thấy lực lượng tiến sĩ Việt Nam ở nước ngoài vẫn rất đông và nhiều người có mong muốn trở về nếu có chế độ đãi ngộ phù hợp.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất trong thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao của nước ta hiện nay là môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ chưa tương xứng để họ yên tâm nghiên cứu, cống hiến. Tôi hy vọng tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và mới đây là Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo sẽ được cụ thể hóa thành chính sách rõ ràng để thúc đẩy, tạo đột phá nâng cao trình độ nhân lực khoa học công nghệ của nước ta”.

Còn theo Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên, nhằm nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ giảng viên đạt trình độ tiến sĩ, đối với cán bộ, viên chức chưa đạt trình độ này, nhà trường đã có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cụ thể.
Theo đó, khi được cử đi học, giảng viên được đảm bảo điều kiện tài chính cần thiết thông qua cơ chế hỗ trợ bổ sung, bù đắp thu nhập trong thời gian tập trung nghiên cứu, miễn giảm khối lượng giảng dạy. Ngoài ra, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, giảng viên được khen thưởng tới 60 triệu đồng như một hình thức ghi nhận và khích lệ.
Trường cũng xây dựng kế hoạch phát triển đào tạo tiến sĩ gắn với chiến lược phát triển của nhà trường đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Về đội ngũ hướng dẫn, phát triển lực lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ có công bố quốc tế, chủ nhiệm đề tài cấp bộ/cấp nhà nước; đồng thời mời các chuyên gia trong và ngoài nước tham gia giảng dạy, đồng hướng dẫn.
Về cơ sở vật chất, trường đã đầu tư phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu và đào tạo trong các lĩnh vực khoa học dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, IoT, đồng thời đang hoàn thiện thủ tục để xây dựng các phòng lab về blockchain, an toàn không gian mạng (cyber security). Những hạ tầng này tạo nền tảng để nhà trường phát triển các công nghệ lõi, công nghệ chiến lược, phù hợp với danh mục công nghệ trọng điểm mà Chính phủ đã ban hành.
Về quản lý đào tạo, nhà trường thiết lập quy trình đào tạo chặt chẽ, yêu cầu nghiên cứu sinh có công bố khoa học thuộc WoS/Scopus hoặc tạp chí trong nước đạt chuẩn theo quy định của Hội đồng Giáo sư Nhà nước.
Ngoài ra, để chính sách đào tạo tiến sĩ cho cán bộ, công chức vừa chặt chẽ vừa phù hợp thực tế, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa cho rằng cần sự phối hợp ở cả Nhà nước và cơ sở đào tạo.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ tài chính dài hạn cho cán bộ, công chức đi học tiến sĩ, gắn với cam kết phục vụ sau đào tạo. Đồng thời, cần cơ chế liên kết giữa cơ quan cử đi học và cơ sở đào tạo để quản lý chặt chẽ quá trình học tập của nghiên cứu sinh.
Ở phía trường đại học, cần tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao chuẩn mực, mở rộng mạng lưới hướng dẫn. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp, quỹ nghiên cứu, nhằm tạo thêm nguồn lực tài chính cho nghiên cứu sinh, giúp họ yên tâm học tập và nghiên cứu.
"Đối với nhà trường, chúng tôi xác định rõ, đào tạo tiến sĩ là nhiệm vụ then chốt để nâng tầm chất lượng giáo dục đại học, gắn với phát triển công nghệ chiến lược và đóng góp nguồn nhân lực trình độ cao cho đất nước", thầy Nghĩa nhấn mạnh.
Trong khi đó, để triển khai nghiêm túc và hiệu quả tinh thần của Nghị quyết 71-NQ/TW, Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra 2 đề xuất.
Thứ nhất, cần tăng cường công tác quản lý và gắn trách nhiệm đào tạo tiến sĩ với chiến lược phát triển nhân sự của từng cơ quan, đơn vị. Cụ thể, mỗi đơn vị nên xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách bài bản và có tầm nhìn dài hạn.
Đồng thời, cần quy định rõ quy trình đăng ký, phê duyệt, xác định các tiêu chí phù hợp để cán bộ, công chức được tham gia chương trình đào tạo tiến sĩ trên cơ sở đáp ứng yêu cầu công việc, vị trí việc làm và định hướng phát triển chung của tổ chức.
Thứ hai, cần quan tâm việc lựa chọn cơ sở đào tạo và chương trình đào tạo, tránh tình trạng "đánh trống ghi tên", ưu tiên những cơ sở uy tín và đảm bảo chất lượng.
Song song với đó, cần thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát xuyên suốt quá trình triển khai kế hoạch đào tạo tiến sĩ, không chỉ ở đầu vào mà cả ở đầu ra, đánh giá thực chất năng lực cán bộ sau đào tạo và bảo đảm hiệu quả ứng dụng trong công tác chuyên môn.