CSGD tự chủ trong tuyển dụng, bổ nhiệm giảng viên nước ngoài sẽ tạo đột phá trong hội nhập quốc tế

17/09/2025 06:32
Thúy Hiền
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Theo GS Chử Đức Trình, để Nghị quyết 71 phát huy hiệu quả, ngoài mở rộng tự chủ trong tuyển dụng, bổ nhiệm, cần có cơ chế kiểm soát để hạn chế tiêu cực.

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Một trong những nội dung được nêu tại nhóm nhiệm vụ giải pháp về đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo là: “Hoàn thiện các quy định về biên chế, tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm đối với giáo sư, phó giáo sư và các chức danh giảng viên khác phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó giao các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp tự quyết định và thực hiện phù hợp với điều kiện của nhà trường, quyết định tuyển dụng, thuê giảng viên, bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý đối với người giỏi từ nước ngoài”.

Chiến lược dài hạn, đầu tư cho nguồn nhân lực của quốc gia

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội (UET) cho biết, Nghị quyết 71 là một bước đột phá, không chỉ dừng lại ở việc mời giảng viên nước ngoài giảng dạy, nghị quyết còn mở cánh cửa bổ nhiệm các chuyên gia quốc tế vào vị trí quản lý, lãnh đạo; đây là điều mà trước đây gần như không thể thực hiện.

“Theo quy định, để bổ nhiệm một cán bộ lãnh đạo, quản lý, các trường phải trải qua quy trình nhiều bước. Đầu tiên, nhà trường phải tự tìm kiếm ứng viên phù hợp, sau đó tiến hành trao đổi, thống nhất về vị trí việc làm, thủ tục pháp lý và đặc biệt là chế độ đãi ngộ. Tuy nhiên, mức lương chi trả thường phải tuân thủ khung quy định chung của trường, áp dụng đồng loạt cho toàn bộ cán bộ, giảng viên nên rất khó tạo sự linh hoạt hay hấp dẫn đối với chuyên gia quốc tế.

Ngay cả khi đã thống nhất được các điều kiện cơ bản, trường vẫn phải thành lập nhiều hội đồng chuyên môn, hội đồng tư vấn để thẩm định. Tiếp đó, hồ sơ phải được gửi lên cơ quan chủ quản, đồng thời xin thêm ý kiến từ địa phương.

Đặc biệt tại UET, ứng viên bắt buộc phải tham gia kỳ thi viên chức. Sau đó, nhà trường phải chuẩn bị và quy hoạch nhân sự, cử đi đào tạo bồi dưỡng rồi mới tiến hành các bước xem xét, bổ nhiệm.

Sau khi được bổ nhiệm, cán bộ vẫn tiếp tục trải qua giai đoạn đào tạo, bồi dưỡng theo quy hoạch. Cơ chế này giúp bảo đảm tính chặt chẽ, kiểm soát và sự ổn định trong đội ngũ nhưng đồng thời cũng khiến các trường rất khó thu hút nhân tài từ bên ngoài.

Quy trình nhiều giai đoạn này không chỉ tiêu tốn nhiều thời gian, chi phí mà còn làm giảm sức hấp dẫn của các trường đại học Việt Nam trong mắt chuyên gia quốc tế. Nhiều ứng viên nước ngoài nản lòng trước thủ tục kéo dài, phải cung cấp quá nhiều giấy tờ, dẫn tới cơ hội hợp tác bị bỏ lỡ.

Thực tế, chưa có tiền lệ trường đại học trong nước được phép bổ nhiệm trực tiếp một người từ bên ngoài biên chế nhà trường, đặc biệt là nhân sự đến từ nước ngoài, vào các vị trí lãnh đạo.

Với Nghị quyết 71, cơ chế này được rút gọn, mở ra cơ hội cho các trường chủ động lựa chọn, bổ nhiệm những nhân sự có trình độ, năng lực từ nước ngoài, qua đó tăng khả năng hội nhập và nâng cao chất lượng quản trị đại học”, thầy Trình cho hay.

gs-chu-duc-trinh.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: Website nhà trường.

Theo Giáo sư Chử Đức Trình, Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về “Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo” là một trong những quyết sách mang tính trụ cột mới. Kết hợp cùng với Nghị quyết 57-NQ/TW về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” và Nghị quyết 68-NQ/TW về “Phát triển kinh tế tư nhân” hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, với nền kinh tế mạnh trên trường quốc tế. Trong bức tranh đó, Nghị quyết 71 có phạm vi tác động sâu rộng đến toàn bộ hệ thống giáo dục từ mầm non, phổ thông, trung học cơ sở, trung học phổ thông cho tới giáo dục đại học.

Với Nghị quyết 71, kỳ vọng đặt ra là hình thành một hệ thống đào tạo bền vững, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Ý nghĩa của nghị quyết không chỉ dừng lại ở việc trao thêm quyền cho hệ thống giáo dục đại học, mà còn mang tính chiến lược dài hạn, đầu tư cho nguồn nhân lực của quốc gia để tạo thế và lực cho Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong những thập kỷ tới.

Có thể nói, Nghị quyết 71 như một “bài toán trăm năm” của giáo dục Việt Nam, nơi mà việc thực thi thành công sẽ quyết định chất lượng lao động, năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của đất nước.

sv-uet.jpg
Sinh viên Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội thực hành tại phòng thí nghiệm của trường. Ảnh: Website nhà trường.

Tuy nhiên, để nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, bên cạnh việc mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học trong tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự, điều quan trọng là phải có cơ chế kiểm soát nhằm hạn chế những biểu hiện tiêu cực có thể phát sinh.

“Hiện nay, giải pháp quản trị số đang được Nhà nước triển khai sâu rộng trên toàn bộ hệ thống, kể cả trong lĩnh vực hành chính công. Nhờ đó, mọi hoạt động sẽ được giám sát với mức độ minh bạch cao, từ nhiệm vụ, vị trí việc làm, nguồn thu nhập, thù lao của từng cán bộ cho đến mức độ hoàn thành trách nhiệm, được đo lường cụ thể qua các chỉ số KPI. Cách quản lý này góp phần xây dựng một hệ thống chặt chẽ, giảm thiểu tối đa nguy cơ bổ nhiệm mang tính hình thức hoặc thiếu công bằng.

Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu gắn chặt trách nhiệm của lãnh đạo các đơn vị. Người đứng đầu không chỉ chịu trách nhiệm chính trị mà còn phải chịu trách nhiệm trực tiếp về hiệu quả công việc, sự phát triển của đơn vị. Cơ chế hậu kiểm và đánh giá kết quả phải được thực hiện thường xuyên, gắn kết quả phát triển của đơn vị với vai trò lãnh đạo.

Trong thực tiễn, không phải đề án hay quyết định nào cũng đạt kết quả như kỳ vọng, song điều cốt lõi là tính minh bạch và công khai trong mọi khâu. Khi thông tin được công khai, mọi người đều có niềm tin vào tính chính danh của quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm. Từ đó, lãnh đạo đơn vị sẽ tự tin hơn trong đổi mới, sáng tạo, phát huy tinh thần tự chủ và chịu trách nhiệm giải trình trước xã hội”, thầy Trình nhận định.

Nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học trong chính nhà trường

Cùng bàn về vấn đề này, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng cho biết, việc cho phép các trường đại học tự quyết trong việc tuyển dụng, thuê giảng viên và bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý đối với người giỏi từ nước ngoài không chỉ giúp tăng khả năng thu hút nhân tài quốc tế mà còn thúc đẩy các trường hội nhập sâu rộng hơn với chuẩn mực quốc tế.

“Hiện nay, việc tuyển dụng giảng viên và nhà khoa học quốc tế vào làm việc tại Việt Nam vẫn còn nhiều trở ngại do thủ tục pháp lý phức tạp, quy trình hành chính rườm rà và chính sách đãi ngộ chưa đủ cạnh tranh. Ứng viên phải trải qua nhiều bước như xin giấy phép lao động, hợp pháp hóa văn bằng, chứng minh kinh nghiệm; trong khi phía cơ sở đào tạo phải lập đề án vị trí việc làm, giải trình lý do không sử dụng nhân lực trong nước và chờ phê duyệt chỉ tiêu lao động nước ngoài.

Quy trình kéo dài khiến nhiều ứng viên nản lòng, trong khi mức thu nhập, điều kiện nghiên cứu, hỗ trợ công bố quốc tế và sinh hoạt chưa thật sự hấp dẫn để giữ chân nhân tài. Rào cản ngôn ngữ, khác biệt văn hóa cùng việc thiếu cơ chế rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm của giảng viên nước ngoài cũng là những yếu tố cản trở”, thầy Quỳnh cho biết.

pgs-ng-vu-quynh.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng. Ảnh: NVCC.

Với Nghị quyết 71, các trường đại học được trao quyền chủ động xây dựng tiêu chuẩn và quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm phù hợp với thực tiễn, qua đó tạo nên môi trường cạnh tranh tích cực và thúc đẩy hình thành những trường đại học tinh hoa.

Nghị quyết cũng khuyến khích mở rộng các chương trình đào tạo liên kết, tăng cường giảng dạy bằng ngoại ngữ, đầu tư cơ sở vật chất hiện đại và xây dựng môi trường học thuật minh bạch.

Những giải pháp đồng bộ này không chỉ góp phần nâng cao chất lượng công bố khoa học, sáng chế quốc tế mà còn tạo động lực để các trường đại học Việt Nam cải thiện vị thế trên các bảng xếp hạng toàn cầu.

Ngoài ra, sự hiện diện của đội ngũ quốc tế không chỉ mang lại tri thức mới, công nghệ tiên tiến và phương pháp giảng dạy hiện đại, mà còn mở ra cơ hội để sinh viên tiếp cận trực tiếp với chuẩn mực giáo dục toàn cầu. Đồng thời, đây cũng là điều kiện thuận lợi để giảng viên trong nước học hỏi, trao đổi học thuật, từ đó nâng cao năng lực nghiên cứu và giảng dạy.

Chính sự kết hợp này góp phần giúp Trường Đại học Lạc Hồng gia tăng uy tín, khẳng định thương hiệu và tạo lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút sinh viên, đặc biệt là sinh viên quốc tế.

Không chỉ dừng lại ở đó, các chuyên gia, giảng viên nước ngoài còn đóng vai trò cầu nối để nhà trường mở rộng hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp trên thế giới, qua đó phát triển các chương trình liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật.

Thời gian qua, Trường Đại học Lạc Hồng đã thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với nhiều đối tác tại các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Đây là lợi thế lớn để nhà trường gắn kết sâu hơn với doanh nghiệp, mang đến cho sinh viên cơ hội trải nghiệm môi trường làm việc hiện đại và mở rộng cánh cửa nghề nghiệp tại các tập đoàn đa quốc gia.

sv-lhu.jpg
Sinh viên được tiếp cận, thực hành và nghiên cứu các thiết bị tại Trường Đại học Lạc Hồng. Ảnh: Website nhà trường.

Tuy nhiên, để chính sách này thực sự phát huy hiệu quả, cần hội tụ nhiều điều kiện đi kèm.

“Trước hết là cơ chế đãi ngộ đủ hấp dẫn, cả về thu nhập, môi trường nghiên cứu và cơ hội phát triển nghề nghiệp nhằm giữ chân và thu hút nhân tài. Tiếp đến là nguồn lực tài chính bền vững, bởi nếu không có ngân sách ổn định thì việc tuyển dụng và duy trì đội ngũ chất lượng cao sẽ khó thực hiện.

Song song, hệ thống quản trị cần được vận hành theo nguyên tắc minh bạch và công khai, không chỉ dừng ở việc công bố tiêu chuẩn tuyển dụng, quy trình thực hiện, mà còn phải đảm bảo thông tin về kết quả tuyển dụng được phổ biến rộng rãi, dễ tiếp cận và có cơ chế giám sát độc lập. Điều này giúp tạo dựng niềm tin trong nội bộ nhà trường cũng như trong xã hội, hạn chế tối đa nguy cơ “xin - cho” hay bổ nhiệm mang tính hình thức, đồng thời khuyến khích các ứng viên cạnh tranh công bằng trên cơ sở năng lực và thành tích.

Một hệ thống minh bạch còn cho phép phát hiện sớm những bất cập, tiêu cực nếu có, từ đó kịp thời điều chỉnh để bảo đảm tính công bằng, liêm chính và hiệu quả trong toàn bộ quá trình tuyển dụng, bổ nhiệm.

Cuối cùng, cần có các văn bản pháp lý hướng dẫn chi tiết, vừa bảo đảm sự thống nhất trong toàn hệ thống, vừa tránh tình trạng mỗi nơi áp dụng một kiểu, khiến chính sách mất đi ý nghĩa ban đầu. Chỉ khi hội đủ những yếu tố này, việc triển khai mới đi vào thực chất”, thầy Quỳnh nêu quan điểm.

Thúy Hiền