Bộ Giáo dục và Đào tạo thông tin về 5 chính sách đột phá dự kiến sẽ được xây dựng và thể chế hóa vào Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi).
Theo đó, Luật Giáo dục nghề nghiệp sẽ bổ sung các chính sách về hợp tác quốc tế, đầu tư nước ngoài trong giáo dục nghề nghiệp; chính sách thu hút lao động của doanh nghiệp tham gia giảng dạy các trình độ giáo dục nghề nghiệp mở rộng và tận dụng những lợi thế về nguồn vốn và đội ngũ giảng dạy đến từ doanh nghiệp gắn đào tạo với sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Còn nhiều rào cản khiến giáo dục nghề nghiệp khó hút đầu tư nước ngoài
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thạc sĩ Nguyễn Quang Khải - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Tiền Giang (tỉnh Tiền Giang) cho rằng, nguyên nhân lớn nhất dẫn đến việc các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam hiện chưa thu hút được đầu tư nước ngoài là do chất lượng đào tạo và hệ thống bảo đảm chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Cụ thể:
Thứ nhất, chương trình đào tạo chưa được chuẩn hóa theo chuẩn quốc tế, thiếu thực hành công nghệ cao, chưa gắn kết chặt chẽ với nhu cầu doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cần nguồn nhân lực tay nghề cao, được đào tạo bài bản theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ hai, đội ngũ giảng viên tại nhiều cơ sở giáo dục còn thiếu hụt về chất lượng, đặc biệt là kinh nghiệm thực tiễn và năng lực ngoại ngữ. Điều này gây khó khăn trong việc tiếp cận các công nghệ hiện đại cũng như phương pháp giảng dạy tiên tiến từ quốc tế.
Thứ ba, cơ sở vật chất và thiết bị đào tạo còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hành của các ngành nghề công nghệ cao nên khó thu hút nhà đầu tư muốn liên kết đào tạo theo mô hình hợp tác công - tư (PPP) hoặc đào tạo đặt hàng.
Thứ tư, cơ chế và chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp hiện vẫn còn thiếu rõ ràng, chưa đủ sức hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, hệ thống khung pháp lý liên quan đến cấp phép, công nhận chương trình và chứng chỉ quốc tế còn nhiều bất cập, gây khó khăn trong quá trình triển khai các hoạt động hợp tác và liên kết đào tạo.
Thứ năm, hệ thống kiểm định và công nhận chất lượng còn thiếu minh bạch, thậm chí mang tính hình thức. Việc chưa đạt được công nhận rộng rãi từ các tổ chức quốc tế cũng khiến giá trị bằng cấp và chứng chỉ không được đánh giá cao trong môi trường lao động toàn cầu.

Theo Thạc sĩ Nguyễn Quang Khải, khung pháp lý hiện hành, quyền lợi của nhà đầu tư, thời hạn đầu tư và các điều kiện liên kết đào tạo là những yếu tố khiến nhà đầu tư nước ngoài e ngại khi xem xét đầu tư vào các trường nghề tại Việt Nam.
Trong đó, khung pháp lý liên quan đến đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp hiện vẫn chưa đồng bộ, thiếu tính ổn định và minh bạch. Các quy định pháp luật còn chồng chéo giữa nhiều văn bản như Luật Đầu tư, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Doanh nghiệp và Luật Đất đai khiến việc triển khai thực tế gặp không ít vướng mắc. Bên cạnh đó, quy trình phê duyệt dự án đầu tư còn khá phức tạp, thiếu hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn cho nhà đầu tư khi thực hiện các thủ tục hành chính liên quan.
Quyền lợi của nhà đầu tư hiện cũng chưa được đảm bảo rõ ràng. Các chính sách ưu đãi về thuế, sử dụng đất hay chuyển lợi nhuận ra nước ngoài còn thiếu hấp dẫn và chưa được quy định cụ thể trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Việc thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm của các cơ sở đào tạo nghề với nhà đầu tư khiến quá trình hợp tác tiềm ẩn nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến niềm tin và sự cam kết lâu dài từ phía doanh nghiệp.
Ngoài ra, thời hạn cấp phép đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp thường chỉ kéo dài từ 20-30 năm, tương đối ngắn so với chu kỳ thu hồi vốn và sinh lời trong một lĩnh vực đòi hỏi đầu tư dài hạn. Khi kết thúc thời hạn đầu tư cũng chưa có cơ chế quy định rõ về việc gia hạn hoặc chuyển giao rõ ràng, làm gia tăng sự rủi ro cũng như giảm sức hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực này.
Không chỉ vậy, điều kiện liên kết đào tạo và công nhận văn bằng, chứng chỉ chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn hợp tác quốc tế khiến nhà đầu tư e ngại triển khai các chương trình liên kết.
Vì vậy, trong thời gian tới, cần cải thiện khung pháp lý, tăng cường chính sách ưu đãi và linh hoạt trong liên kết đào tạo sẽ là điều kiện tiên quyết để thu hút dòng vốn đầu tư quốc tế vào giáo dục nghề nghiệp.
Cùng bàn về vấn đề này, Thạc sĩ Nguyễn Khánh Cường – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ Quốc tế LILAMA 2 (tỉnh Đồng Nai) cho biết: "Hiện nay, hợp tác quốc tế tại các trường nghề vẫn ở mức khiêm tốn, chủ yếu tập trung vào một số hoạt động như trao đổi sinh viên, cử học viên đi đào tạo ở nước ngoài, phối hợp xây dựng chương trình đào tạo hoặc tham gia các tổ chức giáo dục quốc tế nhằm cập nhật chuẩn đầu ra và bằng cấp. Việc hợp tác trực tiếp với doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ thiết bị, công nghệ còn nhiều hạn chế.
Một trong những nguyên nhân chính khiến việc thu hút đầu tư và hợp tác từ nước ngoài gặp khó khăn là do vướng mắc trong các quy định và khung pháp lý hiện hành.
Trong đó, có thể kể đến vấn đề quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là những khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA). Đây là nguồn lực quan trọng, bao gồm viện trợ không hoàn lại và khoản vay ưu đãi do các chính phủ hoặc tổ chức quốc tế cung cấp nhằm hỗ trợ nước đang phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, thủ tục tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn này hiện còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong việc tiếp cận và triển khai hiệu quả.
Ngoài ra, thông tin về các nguồn hỗ trợ mà trường nghề có thể tiếp cận vẫn còn hạn chế. Nhiều trường không nắm rõ kênh viện trợ, điều kiện tiếp cận hay thủ tục đăng ký, dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội nhận được nguồn lực đầu tư từ bên ngoài.
Vì vậy, để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hỗ trợ và đồng hành cùng trường nghề, trước hết phải có chính sách phù hợp. Đặc biệt, đối với những khoản viện trợ không hoàn lại, cần đơn giản hóa tối đa thủ tục tiếp nhận để cơ sở đào tạo dễ dàng tiếp cận.
Trên thực tế, quy trình hiện nay vẫn còn khá phức tạp, gây nhiều trở ngại trong việc huy động nguồn hỗ trợ từ ODA không hoàn lại hoặc từ các tổ chức phi chính phủ. Nếu có cơ chế linh hoạt trong ký kết thì việc triển khai hợp tác sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn nhiều”.

Đồng quan điểm, một vị hiệu trưởng trường cao đẳng tại Hà Nội cho hay: "Việc các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa thu hút được đầu tư nước ngoài một phần bắt nguồn từ thực trạng chất lượng đào tạo của nhiều trường chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù, nhu cầu hội nhập và chuẩn hóa đào tạo theo chuẩn quốc tế ngày càng tăng, nhưng nhiều chương trình vẫn xa rời thực tiễn, chưa bắt kịp yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài.
Vì vậy, sinh viên sau khi tốt nghiệp còn thiếu kỹ năng chuyên môn, hạn chế về thực hành và ngoại ngữ gây khó khăn trong việc hòa nhập thị trường lao động toàn cầu. Bên cạnh đó, dù doanh nghiệp có mong muốn tham gia trực tiếp vào đào tạo, nhưng các chuyên gia của họ không thể giảng dạy do vướng rào cản về chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm và những yêu cầu khác.
Đặc biệt, rào cản lớn nhất là sự thiếu hụt cơ chế kết nối giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều trường chưa xây dựng được mạng lưới đủ mạnh để tiếp cận và thuyết phục những đối tác tiềm năng.
Bên cạnh đó, sự hỗ trợ từ Nhà nước trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế còn hạn chế khi chưa có chính sách cụ thể, rõ ràng nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động liên kết, đầu tư và chuyển giao công nghệ".
Cần chính sách ưu đãi rõ ràng và hành lang pháp lý riêng
Theo Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ Quốc tế LILAMA 2, để tận dụng hiệu quả nguồn tài trợ, các thiết bị sau khi cơ sở giáo dục tiếp nhận phải được tích hợp hợp lý vào chương trình đào tạo, thay vì chỉ dừng lại ở việc trưng bày hoặc sử dụng một cách rời rạc. Điều này đòi hỏi nhà trường cần xây dựng kế hoạch điều chỉnh giáo trình, nội dung giảng dạy và phương pháp thực hành phù hợp với công nghệ và quy trình vận hành của thiết bị.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, giảng viên cần được tập huấn bài bản để nắm vững và làm chủ công nghệ mới. Nếu thiết bị hiện đại mà người dạy không sử dụng thành thạo, không hiểu sâu về công nghệ sẽ rất khó phát huy hết giá trị đầu tư. Do vậy, việc đầu tư vào con người cần được đặt ngang hàng với đầu tư vào cơ sở vật chất, để bảo đảm thành công cho các chương trình hợp tác và hỗ trợ công nghệ.

Trong khi đó, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Tiền Giang nêu quan điểm, để tạo thuận lợi cho đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp cần xây dựng và triển khai hệ thống chính sách hỗ trợ đồng bộ, linh hoạt và minh bạch.
Trong đó, cần hoàn thiện khung pháp lý và thủ tục hành chính như ban hành cơ chế pháp lý riêng cho hợp tác đầu tư nước ngoài trong giáo dục nghề nghiệp, đảm bảo rõ ràng về quyền lợi, trách nhiệm và điều kiện hoạt động. Giảm bớt thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình cấp phép thành lập, mở ngành, công nhận bằng cấp, liên kết đào tạo với đối tác quốc tế.
Đồng thời, cần có thêm chính sách ưu đãi và hỗ trợ tài chính như ưu đãi về thuế, đất đai, vốn vay cho nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào giáo dục nghề nghiệp ở những ngành nghề trọng điểm hoặc vùng khó khăn. Miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu thiết bị đào tạo, đặc biệt là thiết bị công nghệ cao phục vụ thực hành. Hỗ trợ chi phí ban đầu khi liên kết đào tạo, chuyển giao chương trình, đào tạo giáo viên hoặc phát triển chương trình chất lượng cao.
Ngoài ra, cần thiết lập mô hình hợp tác công - tư (PPP) một cách linh hoạt, có quy định cụ thể về quyền sở hữu, quản lý tài sản, chia sẻ lợi nhuận. Khuyến khích liên kết đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Song song với đó, cần đầu tư nâng cao năng lực đội ngũ quản lý, giảng viên, nhất là kỹ năng hợp tác quốc tế, ngoại ngữ, quản trị dự án và tiếp cận công nghệ đào tạo tiên tiến. Hỗ trợ chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu kết nối nhà trường - nhà đầu tư - doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực tiếp cận và quản lý hợp tác quốc tế.
Thành lập các trung tâm xúc tiến và kết nối đầu tư giáo dục nghề nghiệp, đóng vai trò kết nối giữa nhà đầu tư nước ngoài và cơ sở đào tạo trong nước. Đồng thời, tổ chức diễn đàn quốc tế, hội chợ nghề nghiệp, hội nghị đối thoại nhà đầu tư để tăng tính minh bạch và mở rộng cơ hội hợp tác.
Không chỉ vậy, cần xây dựng cơ chế công nhận tín chỉ, bằng cấp, chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế để tạo thuận lợi cho hợp tác chuyển giao chương trình và cấp chứng chỉ song bằng. Hỗ trợ các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn kiểm định quốc tế, từ đó tạo niềm tin cho đối tác và tăng khả năng mở rộng liên kết đào tạo.
Cùng quan điểm, vị hiệu trưởng trường cao đẳng tại Hà Nội nhìn nhận, ngoài những giải pháp trên, cần tập trung nâng cao chất lượng đào tạo tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, từng bước tiệm cận các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, tăng cường kết nối với doanh nghiệp, đẩy mạnh hợp tác thực chất nhằm xây dựng chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn, qua đó nâng cao năng lực tay nghề và khả năng thích ứng của người học sau tốt nghiệp.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh phát triển mô hình đào tạo gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh, qua đó tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình giảng dạy. Việc này không chỉ giúp chương trình đào tạo sát thực tiễn hơn mà còn góp phần hình thành môi trường học tập thực tế, hỗ trợ sinh viên rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp ngay trong quá trình học.
"Bên cạnh việc hưởng lợi từ các chính sách hỗ trợ, nhà trường cũng cần chủ động nâng cao năng lực tiếp nhận và triển khai hợp tác quốc tế. Trong đó, việc nâng cao trình độ ngoại ngữ cho giảng viên và sinh viên là yếu tố then chốt để thúc đẩy giao tiếp và tiếp cận môi trường làm việc toàn cầu.
Đồng thời, các trường cần xây dựng mạng lưới kết nối rộng rãi với những tổ chức giáo dục và doanh nghiệp quốc tế, tạo nền tảng vững chắc cho các chương trình hợp tác. Việc đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng mô hình đào tạo tiên tiến từ nước ngoài cũng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế trong giáo dục nghề nghiệp", vị hiệu trưởng trường cao đẳng tại Hà Nội nhấn mạnh.