Mở rộng hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên là đúng đắn và cần thiết

28/09/2025 07:21
Diệu Dương
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Hệ thống hỗ trợ tài chính hiệu quả không chỉ giúp giảm gánh nặng chi phí giáo dục mà còn đảm bảo phát triển bền vững xã hội, đáp ứng yêu cầu đất nước.

Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo do Bộ Chính trị ban hành đã đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Có thể nói, đây là một văn kiện mang tính bước ngoặt với chiến lược đột phá, toàn diện, thể hiện quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước trong việc đưa giáo dục và đào tạo trở thành động lực then chốt cho sự phát triển của đất nước.

Đặc biệt, một trong những nhiệm vụ, giải pháp đáng chú ý được nêu tại Nghị quyết 71 là: "Mở rộng các chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi cho người học, không để học sinh, sinh viên nào bỏ học vì điều kiện tài chính. Xây dựng và triển khai Đề án đào tạo tài năng, ưu tiên các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ. Thành lập Quỹ học bổng quốc gia và phát huy hiệu quả các quỹ khuyến tài, khuyến học khác từ nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác để khuyến khích học tập và phát triển sự nghiệp giáo dục".

Góp phần nâng cao cạnh tranh nguồn nhân lực và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Theo các cơ sở đào tạo và chuyên gia giáo dục, Nghị quyết 71 được coi là “kim chỉ nam” định hướng quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò quyết định đối với tương lai dân tộc. Từ đó, hành lang pháp lý chính là “cây cầu” để đưa chủ trương đúng đắn ấy đi vào thực tiễn, đặc biệt trong việc mở rộng chính sách hỗ trợ tài chính, đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục công bằng đối với mọi đối tượng người học cũng như góp phần khuyến khích, phát huy nguồn nhân lực, tài năng.

Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, yêu cầu đổi mới cơ chế tài chính và đầu tư cho giáo dục trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây được xác định là nhiệm vụ đột phá, đóng vai trò nền tảng, tạo động lực cho sự phát triển của xã hội trong giai đoạn mới. Chia sẻ về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Trường Ngọc - giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành cho biết, Nghị quyết 71 không chỉ mang lại giá trị thiết thực, mà còn có ý nghĩa sâu sắc và cấp thiết đối với sự phát triển giáo dục hiện nay.

Trước hết, về đổi mới trong tư duy quản lý, không nên coi ngân sách nhà nước là nguồn lực duy nhất, mà cần mở rộng chính sách và khung pháp lý để khuyến khích mạnh mẽ sự tham gia đầu tư từ xã hội, doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước. Còn Nhà nước giữ vai trò định hướng, giám sát, đồng thời bảo đảm cơ chế minh bạch nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Cùng với đó là sự đổi mới trong việc phân bổ và sử dụng nguồn lực, cụ thể như thay vì sử dụng dàn trải, cần tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào những ngành, lĩnh vực then chốt, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Mặt khác, cần quan tâm, ưu tiên đầu tư cho các vùng khó khăn, góp phần thu hẹp khoảng cách cơ hội tiếp cận giáo dục. Việc hoàn thiện cơ chế hỗ trợ người học cũng mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có thể kể đến từ chính sách miễn giảm học phí, trao tặng học bổng cho đến mở rộng tín dụng ưu đãi, bảo đảm nguyên tắc công bằng, khuyến khích học tập và tạo điều kiện để mọi công dân đều được tiếp cận giáo dục. Tinh thần Nghị quyết 71 cùng Luật Giáo dục 2019 và Luật Đầu tư 2020 đã xây dựng khung pháp lý cốt lõi, tạo ra cơ hội huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục.

nttu-13-scaled.jpg
Ảnh minh hoạ: Trường Đại học Nguyễn Tất Thành.

Song, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để đưa các cơ chế, chính sách đó trở thành hiện thực thúc đẩy tiến trình phát triển đất nước. Bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa cùng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự cạnh tranh về nguồn nhân lực chất lượng cao và yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng trở nên gay gắt. Do đó, các cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư cho giáo dục và đào tạo được đổi mới một cách căn bản, toàn diện là xu hướng tất yếu.

Trong những năm qua, Nhà nước luôn dành nguồn lực đáng kể cho sự nghiệp giáo dục, khẳng định sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với công tác giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: phân bổ nguồn lực chưa đồng đều, nguồn vốn đầu tư thiếu trọng tâm, có chương trình dự án không phát huy hết hiệu quả hoặc chậm tiến độ, cơ sở vật chất giáo dục ở một số địa phương vùng sâu, vùng xa còn khó khăn, học sinh thiếu phòng học, trang thiết bị tối thiểu,...

Vì vậy cần hoàn thiện hành lang pháp lý, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Giáo dục 2019, Luật Đầu tư 2020 và các văn bản liên quan nhằm đơn giản hóa thủ tục, tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào giáo dục; đồng thời phải triển khai chính sách nhất quán, ổn định, có tính dự báo cao để tăng niềm tin nhà đầu tư, bảo đảm phù hợp với định hướng phát triển của Việt Nam. Việc sử dụng ngân sách và các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục cần được kiểm toán công khai, minh bạch, tránh lãng phí cũng như phát huy vai trò giám sát của cộng đồng, phụ huynh, sinh viên và các tổ chức xã hội.

Đổi mới căn bản cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư cho giáo dục - đào tạo không chỉ là một yêu cầu mang tính chiến lược, mà còn là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh và bền vững. Trong đó, chính sách học phí phải phù hợp với khả năng chi trả của người dân, có cơ chế miễn giảm hợp lý cho đối tượng yếu thế, mở rộng cánh cửa giáo dục cho nhiều đối tượng người học. Chương trình vay tín dụng, học bổng khuyến học, khuyến tài cũng góp phần giảm bớt gánh nặng kinh tế cho các gia đình, không để ai bị bỏ lại phía sau vì rào cản tài chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để hội nhập với thị trường lao động khu vực và quốc tế.

Hệ thống chính sách hỗ trợ tài chính cần bảo đảm độ bao phủ, công bằng và hiệu quả

Với tầm nhìn dài hạn và mục tiêu cụ thể, Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đánh dấu bước tiến quan trọng, thể hiện tư duy giáo dục hiện đại, nhân văn, nhất quán với quan điểm lấy người học làm trung tâm, coi nhà giáo là động lực then chốt, đồng thời nhấn mạnh vai trò phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đồng tình với ý kiến trên, Tiến sĩ Phạm Văn Giềng - giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cho hay, Nghị quyết 71 có điểm mới nổi bật so với Nghị quyết số 29/NQ-TW và Kết luận số 91/KL-TW, đó là chuyển từ “đổi mới căn bản, toàn diện” sang “đột phá chiến lược”, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ.

image.jpg
Ảnh minh hoạ: Trường Đại học Thương mại.

"Giáo dục không chỉ cung cấp kiến thức mà còn kiến tạo tương lai; không chỉ dừng ở mục tiêu công bằng, phổ cập mà còn nuôi dưỡng tinh hoa; không chỉ cải thiện trong phạm vi nội bộ mà còn mở rộng ra không gian phát triển toàn diện, hội nhập và bền vững", thầy Giềng nhấn mạnh. Do đó, cần sớm thể chế hóa các chính sách về đãi ngộ, tài chính, tự chủ, nhằm thu hẹp khoảng cách giữa văn bản và thực tiễn; xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả, bảo đảm công bằng, minh bạch trong quá trình thực thi.

Điều này giúp kiến tạo một hệ sinh thái giáo dục lành mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường – doanh nghiệp – xã hội, đầu tư có chiều sâu cho các trường sư phạm thu hút nhân lực chất lượng cao, trong đó đội ngũ nhà giáo giữ vai trò tiên phong, từ đó giáo dục thực sự trở thành động lực then chốt cho sự phát triển bền vững và trường tồn của dân tộc. Vì vậy, mở rộng chính sách hỗ trợ học phí, đầu tư học bổng là định hướng rất phù hợp và thiết thực, góp phần khuyến khích, phát huy tài năng, xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng bối cảnh mới.

Theo Tiến sĩ Ninh Thị Hoàng Lan - giảng viên Khoa Kinh tế, Trường Đại học Thương mại, giáo dục đại học giữ vai trò thiết yếu và ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của các quốc gia trong kỷ nguyên tri thức nhằm xây dựng lực lượng lao động có kỹ năng cao, thích ứng với sự biến động của thị trường lao động, đồng thời thúc đẩy nghiên cứu, sáng tạo và đổi mới công nghệ - những yếu tố cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và toàn diện. Song, quá trình mở rộng nhanh chóng của hệ thống giáo dục đại học toàn cầu đi kèm với chi phí đào tạo ngày càng tăng có thể tạo áp lực lớn lên ngân sách công.

Điều này khiến học phí ở một số cơ sở đào tạo trở thành nguồn thu chính của các trường đại học. Mặc dù giải pháp này hợp lý về mặt tài khóa, nhưng nếu thiếu các chính sách hỗ trợ tài chính kèm theo, nó có thể làm trầm trọng thêm bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục đại học. Theo đó, để hỗ trợ tài chính cho sinh viên một cách hiệu quả, các quốc gia thường áp dụng nhiều chính sách kết hợp, tùy theo khả năng ngân sách, định hướng giáo dục và hệ thống phúc lợi xã hội. Hai nhóm chính sách phổ biến nhất là trợ cấp không hoàn lại và tín dụng sinh viên (hỗ trợ có hoàn lại).

Các chính sách hỗ trợ không hoàn lại hiện nay bao gồm 3 hình thức cơ bản: miễn giảm học phí, trợ cấp xã hội và học bổng khuyến khích học tập. Ở Việt Nam, cơ sở pháp lý của các chính sách này được quy định tại nhiều văn bản quan trọng như Nghị định số 81/2021/NĐ-CP của Chính phủ. Theo quy định hiện hành, đối tượng được miễn, giảm học phí bao gồm: sinh viên thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn, sinh viên khuyết tật, sinh viên ngành đặc thù, con thương binh liệt sĩ, và một số đối tượng chính sách khác.

image-1.jpg
Ảnh minh hoạ: Đào Hiền.

Về chính sách học bổng, có hai loại chính là học bổng dựa trên thành tích học tập và học bổng chính sách. Học bổng thành tích chủ yếu được cấp từ nguồn học phí do các cơ sở giáo dục đại học tự chủ thu, với mức bố trí tối thiểu bằng 8% nguồn thu học phí đối với trường công lập và tối thiểu 2% nguồn thu học phí đối với trường tư thục. Trong khi đó, học bổng chính sách (mang tính trợ cấp xã hội) được cấp từ ngân sách nhà nước cho các nhóm sinh viên yếu thế theo quy định của Nghị định số 84/2020/NĐ-CP.

Tuy nhiên, số liệu từ điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) cho thấy tỷ lệ sinh viên đại học nhận được ít nhất một hình thức hỗ trợ tài chính không hoàn lại đã giảm mạnh từ mức 9,8% vào năm 2012 xuống chỉ còn 3,2% trong năm 2022 [1]. Nguyên nhân chính khiến chính sách hỗ trợ không hoàn lại chưa thực sự phát huy hết hiệu quả là phạm vi hỗ trợ còn hẹp, chủ yếu hướng đến các nhóm chính sách đặc thù theo tiêu chí hành chính, thay vì mở rộng hỗ trợ theo mức độ nhu cầu tài chính. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên có hoàn cảnh khó khăn nhưng không nằm trong diện ưu đãi thì không tiếp cận được chính sách. Hệ thống chính sách hỗ trợ tài chính chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bao phủ, tính công bằng và hiệu quả thực thi.

Trước bối cảnh đó, Nghị quyết 71 đặt ra chủ trương mang tính đột phá, mở rộng chính sách hỗ trợ tài chính và tín dụng ưu đãi cho mọi đối tượng người học, nhằm kịp thời đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của thực tiễn. Để hiện thực hoá định hướng này, cần mở rộng chính sách miễn học phí có mục tiêu, phát triển chính sách trợ cấp dựa trên nhu cầu phù hợp, mở rộng phạm vi và đối tượng vay tín dụng,... Trong giai đoạn đầu, chương trình có thể được triển khai thí điểm với quy mô giới hạn, tập trung vào một số ngành hoặc vùng miền, trước khi mở rộng toàn quốc.

Mọi chính sách cần được triển khai song song với các biện pháp tăng cường minh bạch, công khai hóa dữ liệu thụ hưởng và đánh giá định kỳ hiệu quả thực thi. Một hệ thống hỗ trợ tài chính hiệu quả không chỉ giúp giảm gánh nặng chi phí giáo dục mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo công bằng xã hội và phát triển bền vững nền giáo dục Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

[1] https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/04/Sach-Khao-sat-Muc-song-dan-cu-2022_Final.pdf

Diệu Dương