10 kết quả nổi bật của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 2023

18/01/2024 11:02
Thu Giang
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Năm 2023, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã đặt quyết tâm cao, nỗ lực vượt khó, vươn lên đạt được những kết quả toàn diện, tạo dấu ấn rõ nét.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tổng kết 10 kết quả nổi bật của Ngành trong năm 2023 như sau:

1. Hệ thống chính trị ở cơ sở vào cuộc mạnh mẽ: 100% các xã, huyện và tỉnh trên toàn quốc thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế

100% các xã tại 63 tỉnh, thành đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (tương ứng có 10.595 Ban Chỉ đạo cấp xã); 60/63 tỉnh đã đưa chỉ tiêu về tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; 22/63 tỉnh trích ngân sách địa phương hỗ trợ thêm cho người tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện; 62/63 tỉnh trích ngân sách địa phương hỗ trợ thêm cho người tham gia bảo hiểm y tế.

Sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương từ cấp tỉnh tới cấp xã cho thấy sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị trong thực hiện mục tiêu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng.

2. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tiếp tục tăng, đặc biệt tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế phát triển bền vững trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi chưa như kỳ vọng

Năm 2023, cả nước có khoảng: 18,26 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 39,25% lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó khoảng 1,83 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đạt 3,92% lực lượng lao động trong độ tuổi (vượt 1,42% mục tiêu đến năm 2025 tại Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương); 14,7 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt gần 31,6% lực lượng lao động trong độ tuổi.

Đặc biệt, diện bao phủ bảo hiểm y tế tiếp tục phát triển bền vững qua các năm: năm 2021 tỷ lệ bao phủ là 91,01% (vượt 0,01%); năm 2022 là 92,04% (vượt 0,04%); năm 2023 có trên 93,3 triệu người tham gia đạt tỷ lệ 93,35% (vượt 0,15% so với Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ) tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.

Việc giữ vững tốc độ phát triển bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đặc biệt là tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế phát triển bền vững trong khi đời sống người dân còn khó khăn một lần nữa đã khẳng định sự kiên định, quyết liệt của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong việc thực hiện hiệu quả lộ trình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân.

Đây vừa là nhiệm vụ chính trị vừa thể hiện trách nhiệm của Ngành trong đảm bảo an sinh xã hội, ổn định đời sống người dân.

3. Số người thụ hưởng chính sách ngày càng lớn, quyền lợi người thụ hưởng tiếp tục được đảm bảo kịp thời với chất lượng phục vụ ngày càng cao

Toàn Ngành tiếp tục ghi dấu ấn trong công tác chuyển đổi số, đổi mới tác phong làm việc theo hướng phục vụ; giải quyết và chi trả đúng, đủ, kịp thời, đảm bảo quyền lợi của người tham gia và thụ hưởng chính sách.

Đặc biệt, thực hiện Nghị định số 42/2023/NĐ-CP của Chính phủ, với tinh thần khẩn trương, toàn Ngành đã ưu tiên tập trung nguồn lực, chi trả đầy đủ, kịp thời lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng theo mức hưởng mới từ ngày 14/8/2023 và hoàn thành ngay trong buổi sáng ngày đầu chi trả với 100% người hưởng qua tài khoản cá nhân (khoảng hơn 1,24 triệu người) với tổng số tiền trên 8,8 nghìn tỷ đồng.

Việc triển khai hiệu quả, nhanh gọn Nghị định số 42/2023/NĐ-CP của Ngành đã được người dân ghi nhận và đánh giá cao.

Trong năm 2023, toàn ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã giải quyết gần 95,7 nghìn người hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng.
Trong năm 2023, toàn ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã giải quyết gần 95,7 nghìn người hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng.

Trong năm 2023, toàn Ngành đã giải quyết: gần 95,7 nghìn người hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng; hơn 8,8 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; phối hợp với ngành Lao động - Thương binh và Xã hội giải quyết cho hơn 1 triệu người hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp.

Tổng số chi các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đạt trên 439,27 nghìn tỷ đồng, trong đó quỹ bảo hiểm y tế là 124,3 nghìn tỷ đồng với hơn 174,8 triệu lượt người khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Xác định công tác phục vụ người hưởng luôn là nhiệm vụ trọng tâm, ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam không ngừng cải cách hành chính mạnh mẽ: cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính từ 114 thủ tục (năm 2015) xuống chỉ còn 25 thủ tục, trong đó 100% thủ tục được cung cấp trực tuyến ở mức độ 4; thực hiện giao dịch điện tử với các tổ chức, cá nhân ở tất cả các lĩnh vực nghiệp vụ….

Đáng chú ý, năm 2023, cả nước đã có khoảng 64% số người nhận các chế độ bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp qua tài khoản cá nhân tại khu vực đô thị, tăng 3% so với năm 2022 (vượt 4% chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao).

Sự chủ động, kịp thời với tinh thần làm việc chu đáo, chuyên nghiệp của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam thể hiện tinh thần trách nhiệm, sự nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, tạo thuận lợi tối đa cho các tổ chức, cá nhân tham gia, thụ hưởng chính sách.

4. Kỷ cương, kỷ luật về tài chính được tăng cường; quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tiếp tục được quản lý chặt chẽ, an toàn, hiệu quả

Quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, được quản lý, sử dụng đúng mục đích, an toàn, bền vững, công khai, minh bạch dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội và các cấp, các ngành.

Quy mô các quỹ tăng qua từng năm, được thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời tới từng người tham gia, thụ hưởng, nhờ đó Nhân dân, người lao động ngày càng yên tâm, tin tưởng chính sách.

Bên cạnh việc đảm bảo quyền lợi người tham gia, quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn là nguồn tài chính quan trọng của quốc gia.

Với cơ cấu đầu tư vào trái phiếu Chính phủ chiếm trên 80% tổng dư nợ đầu tư, các quỹ bảo hiểm đã góp phần đáp ứng nhu cầu huy động vốn của ngân sách nhà nước, giúp thực hiện chính sách tài chính vĩ mô, ổn định tài chính quốc gia, cơ cấu lại nợ công, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

5. Công tác truyền thông, tư vấn, giải đáp chính sách tiếp tục đổi mới linh hoạt, sáng tạo

Công tác truyền thông được triển khai đồng bộ với nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, bắt kịp xu hướng hiện đại; kết hợp linh hoạt giữa truyền thông trực tiếp và truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng xã hội;… tạo sự lan tỏa sâu rộng để người dân biết đến chính sách, hiểu sâu lợi ích của chính sách, từ đó tin tưởng, tham gia.

Đáng chú ý, việc triển khai hiệu quả công tác truyền thông đã góp phần tăng cường sự vào cuộc chủ động, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, tạo sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp trong tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo đúng tinh thần các Nghị quyết của Đảng.

Năm 2023, ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương và địa phương đăng tải hơn 32 nghìn tin, bài, phóng sự…; thực hiện khoảng 28.800 hội nghị truyền thông, tập huấn, tư vấn, đối thoại với khoảng 1,58 triệu lượt người tham dự; khoảng 139.000 cuộc truyền thông nhóm nhỏ cho khoảng 1,08 triệu lượt người;...

Đặc biệt, Cổng thông tin điện tử của Bảo hiểm xã hội Việt Nam mỗi ngày thu hút từ 200-300 nghìn lượt truy cập.

Đến nay, Cổng đã có 200 triệu lượt truy cập và là một trong những Cổng thông tin điện tử có lượng người đọc, người xem lớn nhất trong khối các Bộ, ngành.

Công tác tư vấn, giải đáp, hỗ trợ, chăm sóc khách hàng được ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đặc biệt quan tâm đẩy mạnh.

Năm 2023, đã hỗ trợ, tư vấn, giải đáp trên 1,7 triệu lượt người; tổ chức 12 hội nghị đối thoại, giải đáp chính sách tại 12 tỉnh, thành phố, thu hút gần 2.450 người tham gia.

Qua đó, góp phần xây dựng hình ảnh ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam phục vụ người dân tận tâm, chuyên nghiệp và hiệu quả.

Nhận thấy lợi ích của bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế rất thiết thực đặc biệt đối với người có hoàn cảnh khó khăn, những năm qua, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã phát động chương trình tặng sổ bảo hiểm xã hội, tặng thẻ bảo hiểm y tế trong toàn hệ thống với thông điệp trao nhân ái, lan tỏa yêu thương.

Năm 2023 đã có 24.300 sổ bảo hiểm xã hội và 250.000 thẻ bảo hiểm y tế được trao tặng cho người có hoàn cảnh khó khăn.

Công tác truyền thông, tư vấn, giải đáp chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tiếp tục đổi mới linh hoạt, sáng tạo.
Công tác truyền thông, tư vấn, giải đáp chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tiếp tục đổi mới linh hoạt, sáng tạo.

6. Bảo hiểm xã hội Việt Nam tiếp tục được ghi nhận, đánh giá là một trong những đơn vị đi đầu trong triển khai Đề án 06

Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã ưu tiên tập trung nguồn lực, chủ động thực hiện các giải pháp hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao tại Đề án 06, đạt nhiều kết quả trong “Năm Dữ liệu số quốc gia 2023” và vinh dự được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.

Trong năm 2023, Ngành đã xác thực hơn 95 triệu thông tin nhân khẩu trong cơ sở dữ liệu do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, trong đó có khoảng 86,6 triệu người đang tham gia, thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế chiếm 97% tổng số người tham gia.

Đây là cơ sở, tiền đề quan trọng để cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm quyền lợi người tham gia, thụ hưởng chính sách, đồng thời phòng chống trục lợi chính sách hiệu quả.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã phối hợp với ngành Công an, ngành Y tế và các Bộ, ngành liên quan triển khai: sử dụng thẻ Căn cước công dân gắn chíp phục vụ người dân đi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế; triển khai 02 nhóm thủ tục hành chính liên thông “Đăng ký khai sinh - đăng ký thường trú - cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi và Đăng ký khai tử - Xóa đăng ký thường trú - Hỗ trợ chi phí mai táng, Trợ cấp mai táng”… giúp người dân chỉ cần đến bộ phận Một cửa của Uỷ ban nhân dân cấp xã nộp hồ sơ và nhận 3 kết quả cùng lúc.

Trong năm 2023, toàn Ngành đã tiếp nhận và giải quyết: 443.138 hồ sơ đề nghị cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi (rút ngắn thời gian chờ cấp thẻ bảo hiểm y tế từ 05 ngày xuống còn 02 ngày); 5.658 hồ sơ đề nghị giải quyết hưởng mai táng phí (rút ngắn thời gian giải quyết từ 10 ngày xuống còn 07 ngày)…

Đặc biệt, đến nay, 100% cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế (tương ứng 12.851 nghìn cơ sở) trên toàn quốc đã triển khai khám chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp, với hơn 55 triệu lượt người sử dụng, rút ngắn thời gian, thủ tục khám chữa bệnh, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và quản lý, sử dụng hiệu quả quỹ bảo hiểm y tế.

7. Số tiền chậm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp giảm sâu nhất từ trước đến nay

Toàn ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp đa dạng, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành để thu hồi, giảm số tiền chậm đóng xuống mức thấp nhất.

Đặc biệt, Ngành đã tăng cường tập trung thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm vào các đơn vị chậm đóng lớn, kéo dài; đẩy mạnh thanh tra chuyên ngành đóng đột xuất các đơn vị sử dụng lao động; phối hợp với các đơn vị liên quan ngăn chặn và kịp thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

Năm 2023, Bảo hiểm xã hội Việt Nam chủ trì và phối hợp thực hiện thanh tra, kiểm tra tại hơn 22 nghìn đơn vị với tổng số tiền chậm đóng các đơn vị đã khắc phục là trên 2.023 tỷ đồng.

Nhờ các giải pháp quyết liệt, linh hoạt, đồng bộ của Ngành, năm 2023, số tiền chậm đóng chỉ chiếm 2,69% số phải thu - là tỷ lệ thấp nhất từ năm 2016 trở lại đây (giảm từ 6% năm 2016 xuống còn 2,69%).

Việc tiếp tục duy trì tỷ lệ chậm đóng ở mức thấp là một nỗ lực rất đáng ghi nhận, góp phần đảm bảo quyền lợi cho người lao động, nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật của người sử dụng lao động trong thực hiện chính sách.

8. Đặt quyền lợi người tham gia bảo hiểm y tế làm trọng tâm, ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã chủ động, tích cực phối hợp với ngành Y tế tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong khám chữa bệnh bảo hiểm y tế và bổ sung nhóm đối tượng được Ngân sách Nhà nước hỗ trợ tham gia bảo hiểm y tế

Năm 2023, để đảm bảo quyền lợi người tham gia bảo hiểm y tế theo quy định, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã chủ động, tích cực phối hợp với Bộ Y tế và các Bộ, ngành liên quan đề xuất Chính phủ ban hành: Nghị quyết số 30/NQ-CP tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế giai đoạn hậu Covid-19 và giải quyết tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế; Nghị định số 75/2023/NĐ-CP ngày giải quyết khó khăn về cơ chế thanh toán kinh phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế vượt tổng mức thanh toán và bổ sung thêm nhiều nhóm đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm y tế.

Thực hiện Nghị định số 75/2023/NĐ-CP, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã kịp thời thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cho các cơ sở khám chữa bệnh.

Đồng thời, Lãnh đạo Ngành đã thường xuyên quán triệt, chỉ đạo Bảo hiểm xã hội các tỉnh đảm bảo kịp thời nguồn kinh phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cho các cơ sở khám chữa bệnh hoạt động.

Có thể thấy, sự chủ động, quyết liệt của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở khám chữa bệnh tổ chức cung ứng dịch vụ y tế, đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm y tế và cùng thực hiện trách nhiệm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm y tế.

9. Đã có khoảng 35 triệu người sử dụng ứng dụng “VssID - Bảo hiểm xã hội số”

Để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, Bảo hiểm xã hội Việt Nam tiếp tục nâng cấp ứng dụng “VssID - Bảo hiểm xã hội số” bổ sung nhiều tiện ích quan trọng: tính năng hiển thị số tiền và thời gian đơn vị chưa đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động; cấp lại mật khẩu ứng dụng tự động bằng trí tuệ nhân tạo tích hợp trên Tổng đài chăm sóc khách hàng; liên thông, chia sẻ một số tính năng của VssID với ứng dụng VneID tạo thuận lợi cho người sử dụng…

Ứng dụng VssID là bước đột phá trong công tác chuyển đổi số của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Ứng dụng VssID là bước đột phá trong công tác chuyển đổi số của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Ứng dụng VssID là bước đột phá trong công tác chuyển đổi số của Ngành. Sau hơn 3 năm triển khai, người dùng ngày càng hiểu được lợi ích, ý nghĩa, vai trò của ứng dụng không chỉ trong việc cung cấp thông tin, tra cứu, thực hiện các DVC trực tuyến mà còn là công cụ để giám sát nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của chủ sử dụng lao động, cảnh báo, ngăn chặn trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

Với các tính năng thiết thực, đến nay ứng dụng đã thu hút khoảng 35 triệu người sử dụng và nhận được nhiều phản hồi tích cực, đánh giá cao.

Theo bảng xếp hạng hiện nay về "Ứng dụng được tải nhiều nhất tại Việt Nam" trên App Store, ứng dụng VssID đứng thứ 25 trong nhóm các ứng dụng cung cấp miễn phí.

Đây cũng là một trong 3 ứng dụng của cơ quan nhà nước được Bộ Thông tin và Truyền thông đánh giá là có lượng người dùng lớn tại Việt Nam.

10. Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế đổi mới, hội nhập và phát triển

Công tác đối ngoại được triển khai chủ động, linh hoạt và có nhiều đổi mới; tăng cường các hoạt động cả đa phương và song phương.

Quan hệ hợp tác về an sinh xã hội với các nước, nhất là các đối tác truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc...; các tổ chức quốc tế (như Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Tiền tệ Quốc tế…) tiếp tục được duy trì, mở rộng.

Những kết quả tích cực, toàn diện đạt được trên tất cả các lĩnh vực công tác của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã cho thấy quyết tâm chính trị của toàn Ngành trong việc thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người tham gia, thụ hưởng chính sách, góp phần củng cố, tạo thêm niềm tin vững chắc của người dân, người lao động, doanh nghiệp với các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước.

Thu Giang