Bổ sung tiêu chí “chuẩn đầu ra” tạo bước quan trọng về kiểm định chất lượng GDNN

18/02/2025 06:29
Tường San
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Để KĐCL giáo dục nghề nghiệp thực sự hiệu quả, cần có cơ chế giám sát chuẩn đầu ra chặt chẽ, tăng cường kết nối với doanh nghiệp, đẩy mạnh số hóa trong kiểm định.

Theo lãnh đạo một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhận định, Thông tư số 14/2024/TT-BLĐTBXH ngày 31 tháng 12 năm 2024 quy định các tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp có nhiều điều chỉnh đáng chú ý, thể hiện sự đổi mới theo hướng linh hoạt hơn, tập trung vào thực chất hơn.

Một số thay đổi quan trọng có thể kể đến như bỏ tiêu chí "quản lý tài chính", chuyển tiêu chí "nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế" thành "nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế"; bổ sung tiêu chí "chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo"; không còn yêu cầu bắt buộc về số lượng đề tài nghiên cứu khoa học, … Những điểm mới này nhằm phù hợp hơn với đặc thù của giáo dục nghề nghiệp, tuy nhiên vẫn cần thêm cơ chế để hạn chế các thách thức có thể xảy ra.

Có thể cần thêm các cơ chế giám sát tài chính

Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Bác sĩ chuyên khoa 2 Trà Sanh – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Ninh Thuận bày tỏ, việc bỏ tiêu chí “quản lý tài chính” trong bộ tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo thông tư mới thay thế cho thông tư năm 2017 có thể xuất phát từ nhiều lý do.

Trước hết, quản lý tài chính là một yếu tố quan trọng trong vận hành cơ sở giáo dục, nhưng có thể Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho rằng tiêu chí này nên được xem xét trong các quy định về quản lý tài chính công thay vì là một phần trực tiếp của kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Điều này giúp tập trung hơn vào các yếu tố cốt lõi ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo như chương trình giảng dạy, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và hiệu quả đào tạo.

Tuy nhiên, việc loại bỏ tiêu chí này cũng đặt ra một số băn khoăn. Tài chính là nền tảng để đảm bảo chất lượng đào tạo, đầu tư cơ sở vật chất, chi trả lương cho giảng viên và hỗ trợ sinh viên. Nếu không có một tiêu chí đánh giá cụ thể về tài chính trong kiểm định, có thể sẽ khó theo dõi mức độ tự chủ tài chính, minh bạch ngân sách và hiệu quả sử dụng nguồn lực của nhà trường.

Vì vậy, thầy Sanh cho rằng, dù tiêu chí “quản lý tài chính” không còn trong bộ tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp, các cơ sở đào tạo vẫn cần duy trì quản lý tài chính hiệu quả, minh bạch và tuân thủ quy định pháp luật. Đồng thời, có thể cần thêm các cơ chế giám sát tài chính song song để đảm bảo các cơ sở giáo dục sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.

Cùng bàn về điểm mới này, Tiến sĩ Đặng Văn Sáng – Hiệu trưởng Trường Trung cấp Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, hiện nay có hai loại hình trường đó là ngoài công lập và công lập. Hai loại hình trường này có các định chế, chính sách, quy trình quản lý tài chính khác nhau. Việc bỏ tiêu chí “quản lý tài chính” là đúng. Bởi, quản lý tài chính thuộc trách nhiệm của Hội đồng quản trị đối với trường ngoài công lập và Hội đồng trường đối với trường công lập. Hội đồng quản trị, hội đồng trường có nghĩa vụ báo cáo, giải trình với cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý thuế. Nếu cần đánh giá tiêu chí này, kiểm định viên chỉ cần yêu cầu cơ sở giáo dục cung cấp giấy xác nhận hoàn thành nghĩa vụ thuế.

Còn theo Nhà giáo Ưu tú, Tiến sĩ Phạm Xuân Khánh - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội, hàng năm, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có thể thực hiện thuê đơn vị kiểm toán độc lập thực hiện rà soát, kiểm toán báo cáo tài chính của nhà trường để rà soát. Báo cáo kiểm toán hàng năm của nhà trường đều thể hiện báo cáo tài chính của trường phản ánh trung thực và hợp lý trên khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của trường, phù hợp với các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán Việt Nam với đơn vị hành chính sự nghiệp. Chính vì vậy, việc bỏ đi tiêu chí “quản lý tài chính” không có gì đáng lo ngại với nhà trường.

Bổ sung tiêu chí về chuẩn đầu ra sẽ mang lại nhiều thuận lợi

Mặt khác, theo thầy Sanh, việc sử dụng tiêu chí “mục tiêu, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo” thay cho “mục tiêu, quản lý và tài chính” (tại Thông tư cũ) trong kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trung cấp, cao đẳng là một điều chỉnh phù hợp với xu hướng hiện nay, mang lại nhiều thuận lợi và định hướng rõ ràng hơn cho giáo dục nghề nghiệp.

Thứ nhất là, đáp ứng yêu cầu thực tế của thị trường lao động. Trong bối cảnh thị trường lao động ngày càng đòi hỏi nguồn nhân lực có kỹ năng thực tiễn, việc xác định rõ chuẩn đầu ra giúp đảm bảo người học sau khi tốt nghiệp có đủ năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và phẩm chất đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Các chương trình đào tạo cần được xây dựng theo hướng chuẩn đầu ra gắn với thực tiễn, giúp người học nhanh chóng thích nghi với công việc.

Thứ hai là, tăng tính minh bạch và trách nhiệm của cơ sở đào tạo. Việc quy định chuẩn đầu ra rõ ràng giúp nhà trường có trách nhiệm cam kết về chất lượng đào tạo, đồng thời giúp người học và doanh nghiệp dễ dàng đánh giá năng lực của sinh viên sau tốt nghiệp. Đây cũng là cơ sở để điều chỉnh và cập nhật chương trình đào tạo sao cho phù hợp với thực tế.

z4316597533620_e68ed25a5f824bb169f9039b0fe9e611.jpg
Ảnh minh họa. Nguồn: Website Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội.

Thứ ba là, phù hợp với xu hướng giáo dục nghề nghiệp hiện đại. Nhiều quốc gia trên thế giới đã chuyển từ mô hình đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo năng lực đầu ra. Việc bổ sung tiêu chí “chuẩn đầu ra” giúp giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên thông, công nhận bằng cấp và hợp tác đào tạo với các nước.

Thứ tư là, định hướng đào tạo theo năng lực thực tế thay vì quản lý tài chính. Thay vì tập trung vào quản lý tài chính – một yếu tố quan trọng nhưng không trực tiếp phản ánh chất lượng đào tạo, việc đánh giá dựa trên chuẩn đầu ra sẽ giúp đảm bảo rằng sinh viên sau khi tốt nghiệp thực sự có đủ năng lực làm việc, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp và uy tín của các cơ sở đào tạo.

Theo Điều 9 tại Thông tư số 14/2024/TT-BLĐTBXH, có 7 tiêu chí đánh giá chương trình đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng:

Tiêu chỉ 1 - Mục tiêu, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo;

Tiêu chí 2 - Cấu trúc và nội dung của chương trình đào tạo, giáo trình;

Tiêu chí 3 - Hoạt động đào tạo;

Tiêu chí 4 - Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và viên chức, người lao động;

Tiêu chí 5 - Cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo và học liệu;

Tiêu chí 6 - Người học và hoạt động hỗ trợ người học;

Tiêu chí 7 - Giám sát, đánh giá chất lượng.

Còn theo thầy Sáng, việc thay thế “mục tiêu, quản lý và tài chính” bằng “mục tiêu, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo” là thích hợp và tất yếu đối với bối cảnh hiện nay. Từ đó, giúp các cơ sở giáo dục nghề nghiệp định hướng và tập trung vào việc phải đầu tư nguồn lực để xây dựng, nâng cao chất lượng chương trình đào tạo nhằm đạt chuẩn đầu ra của chương trình.

Việc bổ sung tiêu chí về chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo sẽ mang lại nhiều thuận lợi và giúp định hướng chương trình đào tạo một cách đúng đắn trong bối cảnh hiện nay.

Đơn cử như nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Chuẩn đầu ra giúp chương trình đào tạo định hướng theo yêu cầu tuyển dụng thực tế, đảm bảo sinh viên có kiến thức và kỹ năng phù hợp. Đồng thời, nếu chuẩn đầu ra rõ ràng và bám sát thực tiễn, sinh viên sẽ dễ thích nghi và đáp ứng được yêu cầu công việc ngay khi tốt nghiệp.

Hơn nữa, giúp nâng cao chất lượng đào tạo. Việc bổ sung tiêu chí chuẩn đầu ra buộc nhà trường phải thường xuyên cập nhật chương trình, phương pháp giảng dạy, đánh giá để phù hợp với chuẩn mực nghề nghiệp và xu hướng mới. Các chương trình đào tạo sẽ không chỉ tập trung vào lý thuyết mà còn chú trọng đến kỹ năng làm việc, tư duy phản biện, sáng tạo, và khả năng thích ứng.

Bên cạnh đó, điểm mới này còn giúp thúc đẩy hội nhập và kiểm định chất lượng. Một chương trình đào tạo có chuẩn đầu ra rõ ràng sẽ dễ dàng hơn trong việc kiểm định chất lượng theo các tiêu chuẩn như AUN-QA, ABET, hay QS Stars, ... Khi có chuẩn đầu ra giúp chương trình đào tạo, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam có thể dễ dàng công nhận tín chỉ, chuyển đổi sinh viên hoặc hợp tác với các trường đại học nước ngoài.

Không những vậy, khi biết rõ chuẩn đầu ra, người học có thể xác định được những kỹ năng và kiến thức cần đạt được, từ đó chủ động hơn trong việc học tập và rèn luyện. Chuẩn đầu ra giúp người học hiểu rõ mình cần đạt tiêu chí nào để tốt nghiệp, tránh học lan man hoặc thiếu tập trung vào những nội dung thiết yếu.

Ngoài ra, trong bối cảnh chuyển đổi số, nhiều kỹ năng và ngành nghề mới xuất hiện, chuẩn đầu ra sẽ giúp cập nhật kịp thời để tránh tình trạng lỗi thời. Việc bổ sung tiêu chí giúp chương trình đào tạo không chỉ dừng lại ở kiến thức chuyên môn mà còn chú trọng đến kỹ năng công nghệ, tư duy sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề.

Có thể nói, việc bổ sung tiêu chí về chuẩn đầu ra không chỉ giúp chương trình đào tạo đi đúng hướng mà còn đảm bảo chất lượng, nâng cao tính thực tiễn và tăng cơ hội nghề nghiệp cho người học. Đây là một bước quan trọng để hoạt động giáo dục thích ứng với sự thay đổi của xã hội, doanh nghiệp và xu hướng hội nhập quốc tế.

Đòi hỏi về tính ứng dụng của đề tài khoa học và sáng cải tiến cao hơn

Cũng theo thầy Sanh, việc bỏ quy định cứng về số lượng đề tài nghiên cứu khoa học và sáng kiến cải tiến trong thông tư mới có thể mang lại cả thuận lợi và thách thức đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Về thuận lợi, trước hết điểm mới này giúp giảm áp lực về số lượng, tập trung vào chất lượng. Trước đây, quy định bắt buộc số lượng đề tài nghiên cứu khoa học (ít nhất 1 đề tài/năm đối với trường trung cấp và 2 đề tài/năm đối với trường cao đẳng) có thể dẫn đến tình trạng chạy theo số lượng, đăng ký nghiên cứu chỉ để đạt chỉ tiêu mà chưa thực sự đảm bảo tính ứng dụng cao.

Việc bỏ quy định cứng này giúp các trường tập trung vào chất lượng nghiên cứu, lựa chọn đề tài thực sự có giá trị thay vì làm để đối phó. Điều này đặc biệt quan trọng với các trường nghề, nơi nghiên cứu khoa học cần gắn chặt với thực tiễn đào tạo và nhu cầu của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, giúp linh hoạt hơn trong chiến lược phát triển nghiên cứu. Trên thực tế, mỗi cơ sở đào tạo có điều kiện và năng lực nghiên cứu khác nhau, việc không áp đặt chỉ tiêu chung giúp các trường linh hoạt hơn trong việc xây dựng chiến lược phát triển nghiên cứu khoa học. Một số trường có thể tập trung vào hợp tác nghiên cứu với doanh nghiệp thay vì tự thực hiện nhiều đề tài nội bộ.

z5857661948726_ddda1d68d930d1a5803dd2886c4e8954.jpg
Sinh viên Trường Trung cấp Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh trong giờ học. Ảnh: Website Nhà trường.

Tuy nhiên, về thách thức, điểm mới này có thể gây ra nguy cơ giảm sự đầu tư vào nghiên cứu khoa học.

Theo thầy Sanh, nếu không có yêu cầu cụ thể, một số trường có thể coi nhẹ hoạt động nghiên cứu khoa học, dẫn đến tình trạng ít đầu tư hơn vào việc phát triển sáng kiến cải tiến hoặc đổi mới phương pháp giảng dạy. Điều này có thể ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy, vì nghiên cứu khoa học và sáng kiến cải tiến giúp nâng cao năng lực của giảng viên, cập nhật công nghệ mới vào chương trình đào tạo.

Vậy nên, dù không còn quy định cứng về số lượng, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn nên duy trì và khuyến khích nghiên cứu khoa học theo hướng thực tiễn, gắn với nhu cầu doanh nghiệp và cộng đồng.

Đồng thời, cần có cơ chế khuyến khích giảng viên, sinh viên tham gia nghiên cứu, sáng tạo nhưng theo cách linh hoạt hơn, không bị áp đặt bởi chỉ tiêu số lượng. Tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng nghiên cứu, tiếp cận các mô hình đào tạo tiên tiến thay vì chỉ tập trung vào nghiên cứu nội bộ.

Theo thầy Sanh đánh giá, thông tư mới đã có nhiều điều chỉnh hợp lý, tập trung hơn vào chất lượng thực tế thay vì chạy theo hình thức. Tuy nhiên, để kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp thực sự hiệu quả, cần có cơ chế giám sát chuẩn đầu ra chặt chẽ, tăng cường kết nối với doanh nghiệp, thúc đẩy nghiên cứu khoa học ứng dụng và đẩy mạnh số hóa trong kiểm định. Nếu làm tốt những điều này, giáo dục nghề nghiệp sẽ ngày càng phát triển, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.

Thầy Sáng cũng đồng tình với việc bỏ sáng kiến kinh nghiệm, nhưng nên thay vào đó là các bài tham luận, bài báo khoa học đăng trên kỷ yếu hội thảo và tạp chí khoa học trong nước, quốc tế, tiến tới cao hơn nữa là các đề tài khoa học các cấp.

Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, thầy Sáng cho rằng, cần thống nhất các tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thành một.

Trong khi đó, theo thầy Khánh, tại tiêu chuẩn 6.2 của thông tư mới nêu rõ “Hằng năm, trường có tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến từ cấp trường trở lên, được ứng dụng, phục vụ trực tiếp công tác đào tạo của trường và phục vụ cộng đồng”.

Như vậy, theo thông tư mới, không chỉ hàng năm nhà trường phải có đề tài khoa học, sáng kiến cải tiến có tính ứng dụng, phục vụ trực tiếp công tác đào tạo của trường mà còn có cả tính ứng dụng phục vụ cộng đồng. Đây chính là điểm mới và đòi hỏi cao hơn của thông tư mới so với thông tư cũ về tính ứng dụng của đề tài khoa học và sáng cải tiến.

Thầy Khánh thông tin thêm, hàng năm các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện tự đánh giá kiểm định chất lượng theo quy định của Thông tư số 28/2017/TT-BLĐTBXH ngày 15 tháng 12 năm 2017 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Tuy nhiên, tới thời điểm này Bộ Lao động Thương binh và Xã hội vẫn chưa ban hướng dẫn đánh giá các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp đối với trường trung cấp, cao đẳng cho thông tư mới. Điều này là rất khó khăn cho việc thực hiện tự đánh giá của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp năm 2025. Vì vậy, đề nghị sớm ban hành hướng dẫn đánh giá các tiêu chuẩn kiểm định theo thông tư mới để các cơ sở thuận lợi trong hoạt động tự đánh giá kiểm định hàng năm.

Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp bên cạnh việc hoàn thiện bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng chúng ta cần chú trọng một số nội dung như đẩy mạnh tự đánh giá kiểm định và kiểm định độc lập, tăng cường các tổ chức kiểm định độc lập, phát triển đội nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ kiểm định.

Kết nối với doanh nghiệp trong quá trình kiểm định thông qua đánh giá năng lực thực hành, kỹ năng làm việc của sinh viên sau tốt nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp đồng hành trong xây dựng chương trình đào tạo, giúp đảm bảo chương trình gắn với nhu cầu thực tế.

Hơn nữa, cần ứng dụng công nghệ vào kiểm định nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về chất lượng giáo dục nghề nghiệp, giúp quản lý và theo dõi kết quả kiểm định một cách minh bạch, chính xác. Tăng cường giám sát sau kiểm định giúp các cơ sở giáo dục nghề nghiệp duy trì chất lượng sau kiểm định.

Không những vậy, cần thúc đẩy hợp tác quốc tế trong kiểm định giáo dục nghề nghiệp để học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình kiểm định giáo dục nghề nghiệp của Đức, Úc, Hàn Quốc, Singapore để áp dụng vào thực tế; Có cơ chế khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn kiểm định quốc tế, tạo lợi thế cạnh tranh và nâng cao vị thế giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam.

Việc nâng cao chất lượng kiểm định giáo dục nghề nghiệp không chỉ giúp đảm bảo chất lượng đào tạo mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của lao động Việt Nam trong thời đại công nghệ và hội nhập. Các giải pháp này nếu được triển khai đồng bộ sẽ giúp hệ thống giáo dục nghề nghiệp phát triển bền vững và đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường lao động.

Tường San