Cần gỡ nút thắt về trao quyền sở hữu trí tuệ và cơ chế định giá sản phẩm KHCN

16/05/2025 06:30
Diệu Dương

GDVN - Nếu cơ chế, chính sách chưa “mở khoá”, thì khoa học công nghệ khó lòng bứt phá và sẽ chuyển động chậm hơn nhu cầu của xã hội và thực tiễn của thế giới.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đặt ra tại Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là: Khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ, đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế,… để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát triển nguồn nhân lực; đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính; giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.

Đầu tư cho các nhóm nghiên cứu trong trường đại học phải dài hơi, tới tầm và xứng tầm

Nhiều chuyên gia, nhà khoa học đánh giá Nghị quyết 57 không chỉ tạo “đòn bẩy” quan trọng để giúp giải phóng nguồn lực, thúc đẩy cơ chế đầu tư linh hoạt, minh bạch, mà còn tạo ra môi trường năng động, cởi mở cho khoa học, công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển.

Đây chính là điều kiện cốt lõi để nuôi dưỡng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vươn lên mạnh mẽ, nơi mà trí tuệ người Việt có thể bứt phá và khẳng định vai trò trên bản đồ khoa học công nghệ toàn cầu. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Mẫn - Trưởng phòng Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Ðại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: Hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ gắn liền với công bố quốc tế đã được nhà trường chú trọng từ lâu, đặc biệt trong những năm gần đây.

Trong bối cảnh tự chủ đại học hiện nay, yếu tố then chốt trong việc đầu tư cho khoa học - công nghệ chính là các chính sách tài chính của cơ sở giáo dục. Nếu các trường đầu tư mạnh về tài chính cho các dự án nghiên cứu, có chính sách đãi ngộ hấp dẫn thì sẽ thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong đội ngũ cán bộ, giảng viên và cả sinh viên.

Để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học tại các cơ sở giáo dục đại học thì yếu tố quan trọng nhất là sự đầu tư về nguồn lực, bao gồm con người, trang thiết bị, đề tài nghiên cứu và các hệ thống hỗ trợ khác. Ngày nay, sự tăng trưởng về kinh tế - xã hội đòi hỏi mức đầu tư ngày càng lớn cho bài toán mang tầm chiến lược về hoạt động nghiên cứu khoa học.

Song, mặc dù đã có sự đầu tư đáng kể cho các cơ sở giáo dục đại học trong những năm gần đây, thực tế cho thấy, chúng ta cần nâng cao năng lực nghiên cứu của các trường đại học hơn nữa nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Ảnh minh hoạ: Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Ðại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Ảnh minh hoạ: Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Ðại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Để thu hẹp khoảng cách đó, một trong những yêu cầu cấp thiết được đặt ra là phải tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng nghiên cứu, từ trang thiết bị hiện đại, hệ thống máy tính hiệu năng cao, cho đến phần mềm bản quyền phục vụ công tác nghiên cứu. Những công cụ này không chỉ giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu mà còn là điều kiện cần để các nhà khoa học Việt Nam tham gia sâu hơn vào mạng lưới tri thức toàn cầu.

Bên cạnh đó, nút thắt lớn hiện nay là vấn đề trao quyền sở hữu trí tuệ cho đơn vị chủ trì, cũng như cơ chế định giá sản phẩm khoa học và công nghệ. Việc chưa trao đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ cho trường đại học, đơn vị chủ trì nghiên cứu, khiến nhiều kết quả nghiên cứu không thể thương mại hóa hiệu quả hoặc bị bỏ ngỏ sau khi nghiệm thu đề tài.

Cùng với đó, việc định giá sản phẩm khoa học công nghệ hiện vẫn là một thách thức khi chưa có khung pháp lý rõ ràng, minh bạch để đánh giá đúng giá trị thực tiễn của các công trình nghiên cứu. Điều này vừa làm giảm động lực sáng tạo, vừa khiến các trường khó thu hút doanh nghiệp tham gia đầu tư, hợp tác phát triển sản phẩm. Nếu không sớm tháo gỡ những rào cản này, hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại đại học sẽ khó có thể trở thành động lực tăng trưởng thực sự trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.

Theo ý kiến của giảng viên một trường đại học tại phía Bắc, hiện nay, các cơ sở giáo dục cần phát triển hơn nữa môi trường nghiên cứu, học tập quốc tế chuyên nghiệp, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm tiêu chuẩn quốc tế. Những yếu tố về điều kiện làm việc cho nhà nghiên cứu chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của nền khoa học phát triển hiện đại sẽ không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và nghiên cứu, mà còn khiến khó thu hút và giữ chân nhân tài ở trong và ngoài nước.

Ngoài việc tập trung vào giai đoạn nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, cơ cấu phân bổ ngân sách nhà nước cho khoa học công nghệ còn cần chú trọng vào những bước đi quan trọng tiếp theo như hoàn thiện công nghệ, thử nghiệm sản phẩm, thương mại hóa và đưa ra thị trường. Nếu được đầu tư đúng tầm thì sẽ không tạo ra một “khoảng trống chuyển tiếp” giữa nghiên cứu và ứng dụng, khiến kết quả khoa học dù có tiềm năng nhưng bị bỏ ngỏ, không thể phát triển thành sản phẩm cụ thể phục vụ sản xuất và đời sống.

Để khắc phục điểm nghẽn này, cần thiết phải thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm chuyên biệt cho lĩnh vực khoa học – công nghệ. Đây sẽ là cầu nối tài chính linh hoạt và hiệu quả, giúp các công trình nghiên cứu vượt qua "khoảng cách" giữa phòng thí nghiệm và thị trường. Thông qua việc chia sẻ rủi ro và đồng hành cùng các nhóm nghiên cứu, quỹ đầu tư mạo hiểm không chỉ góp phần thương mại hóa kết quả nghiên cứu mà còn thúc đẩy hình thành một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo năng động, kết nối chặt chẽ giữa trường đại học, doanh nghiệp và xã hội.

Hơn nữa, đầu tư cho các nhóm nghiên cứu trong trường đại học phải dài hơi, tới tầm và xứng tầm cùng với việc quy hoạch và đầu tư cho các nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn. Có như vậy mới mong đẩy mạnh chất lượng nghiên cứu, hợp tác quốc tế trong khoa học công nghệ và tạo nên các đột phá trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của các trường đại học.

Cần đẩy mạnh thu hút nguồn lực, thúc đẩy mạng lưới hợp tác quốc tế

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống – nguyên Chủ nhiệm bộ môn Kỹ thuật hàng không, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nhận định: Nghị quyết 57 đã mở ra lộ trình đưa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành động lực then chốt cho sự phát triển quốc gia. Vấn đề then chốt bây giờ là biến ý chí trở thành hành động cụ thể. Mọi nguồn lực cần được huy động đồng bộ để hiện thực hóa các nhiệm vụ mà Nghị quyết 57 đã đặt ra.

Sự phát triển như vũ bão của kỹ thuật công nghệ đòi hỏi khung pháp lý linh hoạt, thông thoáng. Tuy nhiên, chính Nghị quyết 57 đã thẳng thắn chỉ rõ “thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu” phát triển khoa học và công nghệ. Một trong những thách thức đối với đổi mới công nghệ ở Việt Nam hiện nay là một số cơ chế, chính sách, quy định hiện hành còn thiếu đồng bộ, chưa theo kịp thực tiễn.

Ảnh minh hoạ: VNU.
Ảnh minh hoạ: VNU.

Vì vậy, hệ thống giáo dục đại học của nước ta cần có sự kết nối chặt chẽ giữa nhiệm vụ đào tạo với nhu cầu của doanh nghiệp. Bởi lẽ, mặt hữu cơ này nếu thiếu liên kết, có thể ảnh hưởng tới hiệu quả trong nghiên cứu khoa học, ngày càng dẫn đến khoảng cách lớn giữa hai bên, thậm chí làm giảm lòng tin từ phía đối tác.

Chẳng hạn, ở một số trường hợp, trường đại học đề xuất đề tài nghiên cứu không phù hợp với thực tiễn, trong khi doanh nghiệp lại thiếu cơ hội hợp tác với giới khoa học để đặt hàng hoặc đề xuất các vấn đề nghiên cứu sát với nhu cầu thực tế. Ngược lại, một số doanh nghiệp khi tìm đến các trường đại học lại chưa thực sự có ý định hợp tác sâu sắc, mà mới chỉ mang tính hình thức.

Mặt khác, đối với các tổ chức doanh nghiệp, cơ chế quản lý tài chính cho nghiên cứu khoa học cần đi vào hiệu quả, thực chất, tạo sự điều kiện hấp dẫn để thu hút nguồn đầu tư từ khu vực tư nhân vào R&D.

Do đó, để doanh nghiệp thực sự trở thành “hạt nhân” của đổi mới sáng tạo thay vì bị bó buộc trước những rào cản thủ tục, hệ thống quy định cần được xây dựng theo hướng linh hoạt, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, phù hợp hơn với thực tế vận hành và nhu cầu phát triển của xã hội như: tăng quyền tự chủ cho đơn vị nghiên cứu, cho phép chuyên gia kéo dài thời gian làm việc, đơn giản hoá thủ tục quỹ khoa học và công nghệ,...

Đặc biệt, để khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thực sự trở thành động lực phát triển, cần cơ chế vượt trội giúp thu hút nhân tài, các chuyên gia, nhà khoa học ở cả trong và ngoài nước. Việc đơn giản hóa thủ tục hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp nước ngoài sẽ giúp mở rộng mạng lưới hợp tác khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu, đồng thời tạo điều kiện cho giảng viên, sinh viên và nghiên cứu sinh tiếp cận với môi trường học thuật tiên tiến.

Qua đó, chúng ta cần xây dựng chính sách thuận lợi cho việc nhập quốc tịch, nhà ở, thu nhập, môi trường làm việc để mời gọi những nhà khoa học xuất sắc, chuyên gia giỏi, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài về cống hiến. Ngoài ra, cần nâng cao chất lượng đại học, sau đại học trong các ngành khoa học - công nghệ then chốt, đồng thời thúc đẩy các chương trình đào tạo kỹ năng số cho người lao động. Khi có đội ngũ nhân lực trình độ cao đủ mạnh, chúng ta mới hy vọng làm chủ được công nghệ lõi và tạo ra những đột phá trong tương lai.

Ảnh minh hoạ: Mộc Trà.
Ảnh minh hoạ: Mộc Trà.

Nhìn ra quốc tế, nhiều quốc gia đã thành công nhờ chiến lược phát triển khoa học - công nghệ linh hoạt, đồng bộ, nhất quán. Điển hình như tại Singapore, nếu đáp ứng đủ điều kiện, các trường đại học luôn khuyến khích, động viên, yêu cầu đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu thành lập, điều hành doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học, rút gọn khoảng cách ứng dụng trực tiếp vào thực tiễn thông qua doanh nghiệp.

Nếu thiếu vốn, họ có thể mời thêm nhà đầu tư hoặc doanh nhân khác tham gia, nhưng cốt lõi là doanh nghiệp đó vẫn dựa trên chính các kết quả nghiên cứu tại trường đại học. Việc giảng viên vừa làm việc tại doanh nghiệp, vừa có thể cống hiến cho các lĩnh vực khác không chỉ giúp họ tích lũy kinh nghiệm thực tiễn quan trọng để giảng dạy hiệu quả hơn; mà còn tận dụng được chất xám, tránh lãng phí nguồn lực.

Với mục tiêu trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo của Châu Á, Singapore còn áp dụng những cơ chế đãi ngộ hấp dẫn, thu nhập cao tương xứng, chính sách thị thực thông thoáng, xây dựng hệ sinh thái nghiên cứu tiên tiến, hiện đại nhằm thu hút nhân tài từ nước ngoài về làm việc.

Bài học kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển như vậy cho thấy, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vững mạnh không thể thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa cơ chế cởi mở, đội ngũ nhân lực chất lượng cao, doanh nghiệp năng động, hạ tầng hiện đại và sự kết nối sâu rộng với thế giới. Với tầm nhìn chiến lược và quyết tâm thực hiện đồng bộ, từng bước triển khai bài bản, kiên trì và đúng hướng, Việt Nam không thiếu tiềm năng để bước vào quỹ đạo vận hành này.

Diệu Dương