Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về việc thực hiện “Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020” (gọi tắt là Đề án 911) có một số nội dung quan trọng như sau:
Theo kế hoạch triển khai Đề án 911 của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại công văn số 2702/BGDĐT-GDĐH ngày 5/8/2012 thì tổng chỉ tiêu đào tạo nghiên cứu sinh của đề án từ năm 2012-2016 là 12.800 chỉ tiêu (đào tạo tiến sĩ trong nước: 5.700 chỉ tiêu; đào tạo tại nước ngoài: 5.800 chỉ tiêu; đào tạo phối hợp: 1.300 chỉ tiêu).
Tính đến hết năm 2016, tổng số nghiên cứu sinh trúng tuyển thực nhập học các hệ đào tạo là 4.024 nghiên cứu sinh, đạt 31,4% so với chỉ tiêu của đề án tính đến năm 2016 và bằng 17,5% của cả đề án.
Số nghiên cứu sinh tốt nghiệp được cấp bằng là 787 người, đạt 6% so với chỉ tiêu của đề án tính đến năm 2016 và bằng 3,4% của cả đề án.
7 nghiên cứu sinh không quay về cơ sở đào tạo, chiếm 1% nghiên cứu sinh tốt nghiệp được cấp bằng.
Về đào tạo tiến sĩ trong nước, tổng số nghiên cứu sinh trúng tuyển đến hết năm 2016 là 2.062 nghiên cứu sinh, đạt 36% so với chỉ tiêu đến năm 2016 và bằng 20,6% của cả đề án.
Như vậy, với mục tiêu của đề án là từ năm 2010-2016 đào tạo từ 1.000 - 1.200 nghiên cứu sinh/năm với tổng số 5.700 nghiên cứu sinh đào tạo ở trong nước của đề án là không đạt.
Với mục tiêu của đề án 911 là từ năm 2010-2016 đào tạo từ 1.000 - 1.200 nghiên cứu sinh/năm với tổng số 5.700 nghiên cứu sinh đào tạo ở trong nước của đề án là không đạt. (Ảnh minh họa: Nguồn Vietnamnet) |
Đó là chưa kể, số nghiên cứu sinh trúng tuyển không dự học, bỏ dở không theo học hoặc chuyển sang nghiên cứu theo hình thức đại trà từ năm 2012 - 2016 là 143 nghiên cứu sinh chiếm 6,9% số nghiên cứu sinh trúng tuyển (143/2062).
Số nghiên cứu sinh kết thúc thời gian nghiên cứu là 703. Trong đó, số nghiên cứu sinh hoàn thành khóa học bảo vệ thành công cấp bằng là 222 nghiên cứu sinh (đạt tỷ lệ 32%), số nghiên cứu sinh hết thời gian nghiên cứu bao gồm tốt nghiệp đúng thời hạn là 165 nghiên cứu sinh, chậm 1 năm là 46 nghiên cứu sinh, chậm 2 năm là 8 nghiên cứu sinh.
Số nghiên cứu sinh hết thời hạn nghiên cứu nhưng chưa tốt nghiệp là 501 nghiên cứu sinh.
Như vậy, số nghiên cứu sinh hoàn thành khóa học bảo vệ cấp bằng đúng kỳ hạn tỉ lệ thấp là 23% (165/703); số nghiên cứu sinh đã hết thời hạn nghiên cứu nhưng chưa bảo vệ đề án hoặc bảo vệ thành công cấp bằng chậm chiếm tỉ lệ tương đối cao là 77% (538/703).
Số nghiên cứu sinh bỏ học hoặc chuyển sang nghiên cứu đại trà trong nước là 143 người (chiếm 7% số lượng trúng tuyển).
Về đào tạo ngoài nước, theo Kiểm toán Nhà nước, tính đến hết năm 2016, kết quả thực hiện của đề án đối với nghiên cứu sinh học tập nghiên cứu tại nước ngoài không đạt được mục tiêu của đề án (tỷ lệ rất thấp).
Vài lời bàn về việc tiêu 12 ngàn tỷ đồng để đào tạo 9000 tiến sĩ |
Cụ thể, trong số 2.926 nghiên cứu sinh đã trúng tuyển, đến hết năm 2016, đề án đã làm thủ tục cử đi học được 1.981 người đạt 67% nghiên cứu sinh trúng tuyển, bằng 34% (1.961/5.800) so với chỉ tiêu của đề án tính đến năm 2016.
Điều đáng nói, số tuyển sinh đào tạo ở nước ngoài nêu trên không phải hoàn toàn do Đề án 911 thực hiện, mà có 655 người thuộc danh sách do Đề án 356 (322) tuyển vượt chỉ tiêu theo quy định chuyển sang.
Vì vậy, kết quả tuyển sinh đào tạo ở nước ngoài của Đề án 911 thực chất chỉ có 1.306 nghiên cứu sinh, bằng 23% chỉ tiêu năm 2016 và bằng 13% tổng chỉ tiêu 10.000 nghiên cứu sinh của cả đề án.
Số nghiên cứu sinh đào tạo ngoài nước bỏ học không theo hết khóa học là 45 người. Số nghiên cứu sinh hoàn thành khoá học về nước 549 nghiên cứu sinh đạt 75% số nghiên cứu sinh hết thời hạn nghiên cứu.
Trong số người tốt nghiệp có 378 nghiên cứu sinh đúng thời hạn, 134 nghiên cứu sinh chậm 1 năm; 28 nghiên cứu sinh chậm 2 năm.
186 nghiên cứu sinh hết thời hạn nghiên cứu nhưng chưa tốt nghiệp trong đó đã xin gia hạn 96 nghiên cứu sinh, quá thời hạn nhưng chưa báo cáo là 90 nghiên cứu sinh.
Như vậy, số nghiên cứu sinh đã hết thời gian nghiên cứu nhưng chưa bảo vệ đề án hoặc bảo vệ đề án chậm 1 - 2 năm chiếm tỉ lệ tương đối cao 48% (355/735 nghiên cứu sinh).
Giảng viên đi du học nước ngoài rồi... một đi chẳng hẹn ngày về! |
Trong số 549 nghiên cứu sinh tốt nghiệp có 542 người trở về nơi công tác theo quy định (có 7 người phải thực hiện bồi hoàn vì không thực hiện đúng cam kết của người được cử đi học ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước).
Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, mức kinh phí chưa thu hồi kịp thời hoàn nộp Ngân sách nhà nước tính đến tháng 9/2017 là 242.300.000 đồng với đào tạo trong nước và 20,07 tỉ đồng đào tạo ở ngoài nước.
Có 7 nghiên cứu sinh được cử đi đào tạo ở nước ngoài nhưng không quay về cơ sở đào tạo cử đi học, phải bồi hoàn 9,364 tỉ đồng nhưng còn 4 nghiên cứu sinh chưa thực hiện bồi hoàn số tiền 4,513 tỉ đồng.
Báo cáo Kiểm toán nhà nước cũng cho thấy, tổng kinh phí đề nghị quyết toán của Đề án 911 giai đoạn 2012-2016 là hơn 1.400 tỉ đồng.
Tuy nhiên, quá trình triển khai, kinh phí phân bổ qua các năm chưa phù hợp với nhiệm vụ chi, phải hủy dự toán hoặc phải chuyển năm sau để chi, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí.
Kiểm toán Nhà nước đề nghị các Bộ ngành kiểm tra, đối chiếu mức tổng số xử lý tài chính là 6.345.253.000 đồng.
Trong đó, thu hồi nộp Ngân sách nhà nước các khoản do Kiểm toán Nhà nước xác định tăng thêm, số tiền 1.883.164.000 đồng gồm:
Các khoản chi không đúng nguồn kinh phí tại Bộ Giao thông vận tải: 1.848.307.000 đồng; thu hồi kinh phí hỗ trợ nghiên cứu sinh bỏ học: 34.857.000 đồng (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn).
Năm 2016 sẽ đào tạo 1.300 tiến sĩ tại nước ngoài theo Đề án 911 |
Đồng thời, hủy dự toán nguồn kinh phí đề án: 4.462.089.000 đồng, trong đó:
Bộ Tài chính: 2.500.089.000 đồng; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: 66.000.000 đồng; Bộ Xây dựng: 1.896.000.000 đồng.
Kiểm toán Nhà nước cũng kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo chấn chỉnh công tác quản lý ngân sách tiền, tài sản nhà nước.
Trong đó, chỉ đạo các cơ sở đào tạo có nghiên cứu sinh được cử đi học tập nước ngoài không hoàn thành khóa học hoặc không thực hiện đúng cam kết quay lại cơ sở đào tạo thực hiện công tác giảng dạy, thu hồi chi phí đào tạo do Ngân sách Nhà nước cấp hỗ trợ hoàn nộp Ngân sách nhà nước tổng số tiền: 24.566.276.605 đồng theo quy định.