Tự chủ đại học là một chủ trương hết sức quan trọng nhằm cải thiện và phát triển nền giáo dục đại học nước nhà.
Cũng chính vì vậy mà Quốc hội đã phải sửa đổi và bổ sung Luật Giáo dục Đại học để tạo điều kiện pháp lý triển khai chủ trương này.
Tuy thế, vẫn còn nhiều khác biệt trong tư duy tổng quát và cụ thể liên quan nên việc thực hiện còn nhiều khó khăn, chậm chạp.
Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam và các câu lạc bộ trực thuộc Hiệp hội đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về chuyên đề này.
Gần đây nhất, Hiệp hội đã phối hợp cùng Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông đã tổ chức cuộc hội thảo tương đối lớn tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng, một điển hình tốt về tự chủ đại học.
Tuy nghiên cứu không ít, hội thảo đã nhiều nhưng không phải mọi thứ đều đã sáng tỏ. Tôi lại muốn tham gia thảo luận thêm.
Giáo sư Trần Hồng Quân. |
Cách nhìn tổng quát
Tự chủ là thuộc tính của trường đại học. Ở nước ta, tự chủ hoá đại học là thực hiện một bước dân chủ hoá, là đổi mới cơ bản quan hệ quản lý, xây dựng mô hình quản lý tiến bộ và hiệu quả hơn.
Đó cũng là một cách xã hội hoá, sẽ tạo động lực tự thân mạnh mẽ cho các trường công lập, tạo sinh khí mới cho nền đại học nước ta.
Tự chủ đại học ở các nước khác là chuyện bình thường, được coi như một thuộc tính tất yếu của trường đại học, còn ở ta tuy đã có chủ trường từ gần ba mươi năm trước nhưng không dễ tìm thấy sự đồng tình không chỉ ở các cấp quản lý mà ngay cả cấp được tự chủ.
Đến hiện nay, khi đã trở thành chủ trương lớn, đã đưa vào luật mà vẫn không dễ thực hiện vì còn vướng trong tư duy và còn nhiều ràng buộc pháp lý do nhiều luật lệ chưa sửa đổi đồng bộ. Đó là vì vẫn còn quán tính của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây.
Trong cơ chế đó, các trường đại học được bao cấp tài chính, bao tư duy, bao lo toan, bao trách nhiệm, bao quyền hạn... gần như cầm tay chỉ việc. Do vậy mà sinh ra sự ỷ lại, trì trệ khó tránh.
Thêm vào đó là việc tách rời đại học và khoa học thành hai hệ thống, các viện lo nghiên cứu, các trường đại học chỉ lo dạy nên không được tạo điều kiện cho nghiên cứu khoa học, không khác gì trường phổ thông cấp bốn. Đó là sự phân lập theo cách kế hoạch hoá máy móc mà các trường tự mình không thể vượt qua.
Tự chủ đại học là một chủ trương canh tân lớn về quản lý trên cơ bản là đặt niềm tin và giao trọng trách cho cấp dưới, tháo gỡ nhiều ràng buộc trong quản lý, giao nhiều quyền tự quyết cho các trường, tạo một không gian tự do sáng tạo trong hoạt động học thuật và điều hành nhà trường. Đó là một bước dân chủ hoá giáo dục đại học.
Tự chủ đại học sẽ tạo ra động lực tự thân mạnh mẽ cho các trường từ áp lực phải tự lực để tồn tại, từ áp lực phải chịu trách nhiệm kết quả cuối cùng của hoạt động nhà trường trước nhà nước, trước xã hội và trước sự đánh giá của thị trường dịch vụ giáo dục.
"Trường tư nhân có quyền tự quyết cao. Trường công lập dù được tự chủ nhưng vẫn có nhiều cái khó”. |
Động lực đó tạo ra sức sống mới mạnh mẽ cho lãnh đạo tất cả các cấp và đội ngũ thầy cô giáo, cán bộ nhân viên của nhà trường.
Tự chủ đại học được thực hiện trên bốn phương diện: tự chủ về học thuật, tự chủ về tài chính, tự chủ về lao động và tự chủ về tổ chức.
1. Tự chủ về học thuật là nội dung cốt lõi của tự chủ đại học. Trước hết là tự quyết định cấu trúc ngành nghề theo hướng đa lĩnh vực, đa ngành hay đơn ngành, tự xác định là trường đại học nghiên cứu hay ứng dụng thực hành, tự xác định lĩnh vực có thế mạnh sở trường... Rồi từ chuẩn trình độ chung do nhà nước quy định mà nhà trường tự quyết định cụ thể hoá thành mục tiêu, chương trình, phương thức đào tạo.
Những nội dung đó không đến nỗi khó cho phép tự chủ. Tuy vậy nếu có những quy định quá cứng với nhiều khung ràng buộc chi li như lâu nay và vận hành theo cơ chế nặng về "xin cho" thì không thể đáp ứng sự thay đổi linh hoạt kịp thời trong bối cảnh giáo dục đại học và khoa học biến đổi cực kỳ nhanh chóng trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Mặt khác tự chủ học thuật còn có vấn đề tự do tư duy học thuật. Chuyện này thường dễ nghĩ ngay đến một số những khía cạnh nhạy cảm liên quan đến chính trị. Thực ra, không có gì đáng ngại, vấn đề là công bố các kết quả nghiên cứu như thế nào, phổ biến đến đâu.
Nếu không có nghiên cứu mà chỉ có giảng dạy, minh họa hoặc nói theo thôi thì không tạo ra những giá trị mới về khoa học, thì mặc nhiên thủ tiêu vai trò của hoạt động khoa học, thủ tiêu vai trò các nhà khoa học và khó có tiến bộ của xã hội.
Thiếu tự do tư duy học thuật không chỉ do cấm đoán vì nhạy cảm chính trị mà còn do sự thống trị của các quyền uy học thuật, do đồng huyết hay cận huyết về học thuật trong đội ngũ các nhà khoa học cùng lĩnh vực... mà không chấp nhận sự tồn tại đa dạng các trường phái khác nhau, nhất là khó chấp nhận các tư duy đột phá, không khuyến khích hoài nghi khoa học, làm giảm động lực phản biện, kiểm chứng, tạo lối suy nghĩ thụ động, lười suy nghĩ, dễ thừa nhận và yên tâm bước đi không chút đắn đo trên đường mòn theo chân các tiền bối, thiếu đông lực sáng tạo.
Trong lịch sử có một thí dụ thấm thía về chuyện này. Trước đây cả thế giới đều quen thừa nhận Thuyết Tiến hoá của Darwin, Liên Xô cũng vậy và rất định kiến với học thuyết mới xuất hiện.
Học thuyết Di truyền của Gregor Johann Mendel dù đó có thể coi là một cuộc cách mạng về sinh học, lật đổ thuyết Tiến hoá của Darwin.
"Trường tư có Hội đồng quản trị và được giao toàn quyền điều hành các hoạt động của nhà trường”. |
Liên Xô coi đó là thuyết định mệnh, là duy tâm. Không cho phổ biến, không nghiên cứu phát triển nên Liên Xô bị lạc hậu rất xa về sinh học dù Liên Xô vốn rất mạnh về khoa học cơ bản.
Chỉ khi hai nhà quyền uy học thuật Misurin và Lisenco qua đời thì sự cấm kỵ đó mới được tháo gỡ. Những thí dụ như vậy không ít trong lịch sử.
2. Tự chủ về tài chính là nhằm tạo các cơ chế sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực đồng thời tạo khả năng thu hút thêm các các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước, có thể tạo sự liên kết với các tổ chức kinh tế, khoa học cùng tham gia vào việc đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đó là một bước mới xã hội hoá giáo dục đại học.
Tuy vậy, đây là một chuyện mà không ít trường ngần ngại tham gia vì vốn quen sống trong sự bình yên của cơ chế bao cấp, ra biển lớn chưa biết thế nào.
Thực ra khi thực hiện tự chủ, không phải nhà nước phủi tay không cấp gì nữa, mà là cấp theo cách khác như qua hình thức đặt hàng đào tạo và nghiên cứu khoa học, qua thực hiện các chương trình trọng điểm hoặc đầu tư học bổng cho các đối tượng được khuyến khích.
Trên thực tế các trường đã được tự chủ, sau thời gian khó khăn ban đầu, phần lớn đều phấn khởi với kết quả đạt được tuy vẫn còn nhiều khó khăn về luật lệ, thủ tục cản trở.
3. Tự chủ về lao động sẽ tạo điều kiện lựa chọn và sàng lọc tối ưu lực lượng lao động. Tiến tới, kể cả lao động giảng dạy cũng sẽ theo hợp đồng, làm tăng tính tích cực của từng cá nhân.
Về phía nhà trường, phải có trách nhiệm tạo điều kiện lao động thuận lợi, đãi ngộ thoả đáng, tôn vinh tương xứng, tạo điều kiện phát triển cho từng cá nhân nhất là các cán bộ khoa học. Tạo động lực của người lao động là yếu tố quan trọng nhất trong động lực tự thân của nhà trường.
Trường được chọn lao động, ngược lại người lao động cũng có quyền lựa chọn trường thích hợp với mình.
Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên Giáo Trung ương đến thăm Giáo sư Trần Hồng Quân (Nguồn ảnh: vietnamnet). |
4. Tự chủ về tổ chức sẽ tạo điều kiện cho trường thiết kế bộ máy phù hợp nhất trong từng giai đoạn. Hệ thống Đảng và các đoàn thể chính trị xã hội như Công đoàn, Đoàn Thanh niên trong trường là mặc nhiên tồn tại ổn định.
Trường có Hội đồng trường, Ban Kiểm soát, Hiệu trưởng và các Hiệu phó. Có trường còn có Hội đồng sáng lập như là một hội đồng nguyên lão mang tính chất cố vấn.
Trong trường có thể có các tổ chức ổn định và tổ chức lâm thời chỉ tồn tại hữu hạn theo các chương trình hoạt động, các hội động khoa học và các tổ chức tư vấn theo yêu cầu từng giai đoạn. Hệ thống tổ chức không nhất thiết theo một khuôn mẫu thống nhất giữa các trường.
Vấn đề sở hữu: Các trường công tự chủ có thể thay đổi, hình thành loại hình đa sở hữu. Vì với quyền tự chủ của mình, nhiều trường có quyền và rất nên thu hút các nguồn đầu tư ngoài nhà nước (cả trong nước và ngoài nước) để tăng tốc độ phát triển, để sớm có điều kiện tốt nhất có thể nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và năng lực nghiên cứu khoa học.
Mặt khác, với các trường ngoài công lập, nhà nước có thể đầu tư theo cơ chế đặt hàng về đào tạo và nghiên cứu khoa học, bổ sung tài sản nhà nước vào trường và do vậy các trường này cũng trở thành dạng đa sở hữu.
Khi đó sự phân biệt trường công và trường tư sẽ mờ nhạt đi, sẽ tạo thành một phổ sở hữu mà ở đó tuyệt đại bộ phận các trường thuộc dạng đa sở hữu, chỉ còn ở hai cực là một số ít trường công lập với thuần tuý sở hữu công và ở cực kia là một số ít trường tư với thuần tuý sở hữu tư.
Điều đó đòi hỏi toàn bộ công tác quản lý, kể cả luật pháp cũng phải thay đổi cho phù hợp. Tự chủ đại học sẽ tạo điều kiện hình thành những mô hình quản lý mới hiệu quả hơn.
Ở đây khi ở trạng thái đa sở hữu thì sự quản lý đòi hỏi vừa phải thật minh bạch trước các bên sở hữu đồng thời vừa phải tối ưu hoá trong sử dụng tài chính và lao động, tối ưu hoá trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học để xây dựng thương hiệu uy tín, tạo ra lợi ích cao nhất cho cho xã hội và cho các chủ sở hữu.
Cách quản lý phải gần như một doanh nghiệp. Hội đồng trường (HĐT) là một thiết chế không thể thiếu khi thực hiện tự chủ đại học. Đó là một tổ chức đại diện cho quyền lợi và trách nhiệm của nhà trường và tập thể nhà trường, nó cần có quyền lực thật sự và quyền lực cao nhất trong trường.
Nó quyết định phương hướng phát triển, phương hướng đầu tư, các quy chế và chính sách nội bộ, cơ cấu tổ chức và nhân sự chủ chốt của trường. Thành phần và quy chế hoạt động của nó phải bảo đảm phù hợp với yêu cầu này.
Nó cần có đại diện của Đảng là tổ chức lãnh đạo xã hội, cần có công đoàn là đại diện cho toàn thể lao động, cần có đại điện Đoàn Thanh niên đại diện cho sinh viên, cần có đại diện giáo chức là thành phần lao động quan trọng nhất trong trường.
Giáo sư Trần Hồng Quân nói chuyện tại Hội thảo quốc tế về cuộc cách mạng 4.0. |
Đương nhiên cần có thành phần đại diện các chủ sở hữu. Nên mời thêm một số các nhà khoa học, các nhà hoạt động xã hội ngoài trường. Hội đồng này không nên có quy định cứng là cần có đại diện chính quyền địa phương. Họ không có việc gì ở đây trong khi họ có toàn quyền giám sát các hoạt động của trường theo luật.
Quan hệ giữa Đảng uỷ trường và Hội đồng trường đã được nêu trong Nghị quyết 19 của Đảng. Cần có Ban Kiểm soát (BKS), là một tổ chức độc lập với Hội đồng trường, ở đó ngoài các đại diện của tập thể nhà trường, còn cần có đại diện của nhà nước, của xã hội.
Ban Kiểm soát không có quyền can thiệp vào các quyết định của Hội đồng trường hoặc Hiệu trưởng mà chỉ có quyền nêu nhận xét đánh giá, thông báo cho Hội đồng trường, báo cáo trước Đại hội công nhân viên chức, và báo cáo với cơ quan quản lý cấp trên.
Cho tự chủ là phải trao toàn quyền cho các trường được hoạt động theo luật pháp, do vậy không cần có cơ quan chủ quản nữa vì không cần và rất không nên duy trì cơ chế "xin cho".
Cái gì luật không cấm thì trường được làm. Các cơ quan quản lý theo chức năng cần dựa vào luật mà giám sát, kiểm tra, nếu làm sai, nhẹ thì nhắc nhở, nặng thì thực hiện chế tài.
Mặt khác, khi ta chủ trương phát triển giáo dục mở, tự chủ hoá đại học thì càng cần thiết tăng cường kiểm tra, kiểm soát, kiểm định chất lượng... để tạo sự an toàn khi tăng tốc phát triển.
Lời kết
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra hết sức nhanh chóng, nó là cơ hội lớn lao cho các nước đi sau, nhưng lại là thách thức khắc nghiệt với các nước thiếu tốc độ phát triển.
Tự chủ đại học thời kỳ hội nhập, nhà trường tự mình làm chủ mọi công việc |
Ngày nay, chỗ đứng thấp không nguy hiểm bằng tốc độ chậm. Giáo dục đại học và khoa học là hai con át chủ bài trong cuộc chạy đua này.
Thực hiện một cách phổ biến tự chủ đại học là một chủ trương sẽ có tác động sâu rộng, tạo sinh khí mới cho nền đại học.
Nếu việc tự chủ hoá đại học đi cùng với việc hợp nhất hệ thống đại học và khoa học thì ta có hy vọng lớn tạo được tốc độ mạnh mẽ phát triển đất nước.
Tuy vậy, không dễ thực hiện vì bị sự cản trở bởi tư duy khó chuyển biến, nhiều cấp quản lý không tự nguyện trao quyền cho cơ sở, nhiều luật lệ, quy định... còn vướng mắc. Nếu cấp vĩ mô không có quyết tâm cao, không mạnh tay tháo gỡ thì khó thực hiện tốt được.
Hiện nay ta đã có 24 trường tự nguyện thực hiện tự chủ. Có trường làm rất tốt như Trường Đại học Tôn Đức Thắng và nhiều trường khác. Từ các điển hình này có thể rút ra nhiều bài học quý và nhìn ra nhiều vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ.
Ta mong rằng các tháo gỡ đó không quá chậm để sớm có thể mở rộng đến hầu hết các trường công lập trong toàn hệ thống. Nhiều trường đang tích cực chuẩn bị nhập cuộc. Cũng không ít trường còn do dự.
Đến giai đoạn này ta không thể tiếp tục cách sống bình an lặng lẽ, phụ thuộc, thụ động được nữa mà phải mạnh dạn ra biển lớn, lao vào cơn bão phát triển hiện nay, dù chắc chắn bước đầu không ít gian nan. Có vậy mới góp sức cho nước nhà không thua kém thiên hạ.