Sáng ngày 24/3, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Toàn cảnh Hội nghị. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo |
Tham dự Hội nghị có Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh; bà Nguyễn Thị Mai Hoa – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn; đại diện Bộ Tài chính, Ủy ban Dân tộc, các cơ quan Trung ương; đại diện lãnh đạo các tỉnh khu vực Tây Nguyên; lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học khu vực Tây Nguyên.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho biết, Hội nghị nhằm bàn sâu và đánh giá tình hình, thống nhất các giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên. Qua đó, góp phần quan trọng để triển khai thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ mà Nghị quyết của Bộ Chính trị đã đề ra.
Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo |
Tây Nguyên là một địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh của cả nước, là tam giác phát triển của Việt Nam - Lào - Campuchia, là nơi sinh sống của gần 6 triệu người thuộc tất cả 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với gần 2,2 triệu người.
Đây là vùng có diện tích lớn thứ 3 trong 6 vùng kinh tế xã hội nhưng dân số chỉ chiếm 6,1% dân số cả nước, cũng là vùng chịu nhiều áp lực về tình hình di dân tự do.
Xuất phát từ vị trí vai trò quan trọng đó, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các địa phương trong vùng đang ngày càng phát huy vai trò, vị trí, tầm quan trọng, khai thác tốt hơn các tiềm năng, lợi thế của mình. Giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên đã đạt được những kết quả quan trọng, đáng ghi nhận nhờ sự chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy chính quyền và sự cố gắng của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, sự quan tâm của toàn xã hội trong những năm tháng vừa qua.
Tuy nhiên, những chuyển biến về giáo dục đào tạo khu vực Tây Nguyên nhìn chung còn chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội của vùng, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao và còn nhiều thách thức, nhiều khó khăn cần phải tiếp tục nhận diện và có giải pháp phù hợp khắc phục, tháo gỡ và phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian sắp tới.
“Do đó, qua Hội nghị hôm nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo mong muốn cùng với các địa phương trao đổi, thảo luận, gia tăng sự nhận thức và những giải pháp để phát triển giáo dục của vùng, cùng nhau chia sẻ các kinh nghiệm mà các địa phương, các cơ sở đã làm tốt trong thời gian qua.
Mong rằng, các địa phương đang quan tâm, sẽ tiếp tục quan tâm và quan tâm một cách phù hợp và đúng cách hơn để phát triển giáo dục và đào tạo, thông qua đó để phát triển kinh tế xã hội, phát triển vùng”, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn gửi gắm kỳ vọng.
Chuyển biến tích cực về quy mô và chất lượng giáo dục
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc đã trình bày Báo cáo tóm tắt tình hình phát triển giáo dục, đào tạo vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2021 và nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc chia sẻ tại Hội nghị. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo |
Theo đó chất lượng giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên đã có nhiều bước chuyển mới. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương.
Một số địa phương đã có các chính sách đặc thù tạo chuyển biến tích cực về quy mô và chất lượng giáo dục, góp phần thu hẹp dần khoảng cách giữa các địa phương trong vùng Tây Nguyên và cả nước.
Các chính sách phát triển nguồn nhân lực, công tác xóa mù chữ, thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm đẩy mạnh.
Quy mô học sinh, các loại hình trường lớp phát triển ổn định, đa dạng phù hợp với điều kiện thực tế của các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội học tập cho người dân, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho các tỉnh trong vùng.
Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú được duy trì và phát triển đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao trình độ văn hóa cho học sinh dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Việc xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia kết hợp với xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực có chuyển biến tích cực.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học từng bước được tăng cường theo hướng kiên cố hóa, hiện đại hóa và chuẩn hóa; bảo đảm cơ bản cho việc triển khai thực hiện chương trình giáo dục Mầm non, phổ thông. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được quan tâm đầu tư, phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục.
Kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở được củng cố, duy trì với các chỉ tiêu thành phần được nâng cao. Chất lượng giáo dục toàn diện đã có bước tiến bộ vững chắc. Giáo dục mầm non được quan tâm đầu tư, chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ được nâng lên rõ rệt. Chất lượng giáo dục phổ thông có chuyển biến tích cực và thu hẹp dần khoảng cách với các địa phương trong cả nước.
Các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn vùng từng bước được mở rộng, trong đó số lượng các cơ sở giáo dục và đào tạo tư thục tăng nhanh. Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Các cơ sở giáo dục và đào tạo đã và đang phát triển theo hướng đa ngành; đào tạo nguồn nhiều cấp trình độ, từng bước góp phần đa dạng hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của vùng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Số lượng giáo viên bỏ việc có xu hướng gia tăng
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, giáo dục vùng Tây Nguyên vẫn còn tồn tại những khó khăn, hạn chế nhất định.
Về quy hoạch mạng lưới trường lớp còn bất cập, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng đủ nhu cầu, việc rà soát, sắp xếp mạng lưới trường, lớp ở một số nơi còn chưa thực sự khoa học, hiệu quả, chưa đảm bảo môi trường học tập cho trẻ em, học sinh. Vẫn còn nhiều trường có quy mô nhỏ, cấp Tiểu học, Mầm non còn nhiều điểm trường lẻ”: cấp Mầm non còn nhiều nhóm, lớp ghép. Việc đưa học sinh về học tại các điểm trường chính ở một số nơi còn gặp khó khăn.
Nhiều cơ sở giáo dục trên địa bàn còn thiếu phòng học, phòng học đã xuống cấp và quá tải, phải học 2 ca, học nhờ, học tạm; thiếu thư viện, nhà vệ sinh, công trình nước sạch. Các điều kiện sinh hoạt của học sinh bán trú, học sinh các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu tối thiểu. Công trình nước sạch, vệ sinh trường học ở nhiều nơi còn thiếu, chưa đạt chuẩn; nhân lực y tế trường học và trang thiết bị phục vụ việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ em, học sinh nhiều nơi còn thiếu trầm trọng.
Trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập còn thiếu, nhiều thiết bị đã cũ, bị hỏng, xuống cấp không đáp ứng yêu cầu dạy - học theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.
Hạ tầng công nghệ thông tin khó khăn, có nhiều điểm lõm về sóng viễn thông, internet; kinh phí thực hiện chuyển đổi số hạn hẹp ảnh hưởng đến việc đổi mới công tác dạy học.
Công tác xã hội hóa giáo dục nhiều nơi còn hạn chế do đời sống nhân dân ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; một số địa phương không có cơ sở giáo dục ngoài công lập.
Số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên còn bất cập: Cơ cấu giáo viên giữa các môn học, cấp học chưa đồng bộ, vẫn còn tình trạng thừa, thiếu cục bộ tại các địa phương, trường học; trong đó đáng chú ý là tình trạng thiếu giáo viên mầm non làm ảnh hưởng đến công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và thực hiện Chương trình giáo dục mầm non; thiếu giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, đặc biệt thiếu giáo viên thực hiện môn học mới trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.
Nguồn tuyển giáo viên không đủ, năm học 2022 - 2023 một số địa phương đã không tuyển đủ số biên chế giáo viên được giao; có địa phương tổ chức thi tuyển, ứng viên đã thi đỗ nhưng sau đó không đến tiếp nhận công việc. Số lượng giáo viên bỏ việc, ra khỏi ngành có xu hướng gia tăng ở một số địa bàn khó khăn làm tăng thêm áp lực về vấn đề thiếu giáo viên.
Tỉ lệ giáo viên chưa đạt chuẩn trình độ đào tạo theo Luật Giáo dục 2019 còn cao.
Về chính sách hỗ trợ cho giáo viên, trẻ em, học sinh, sinh viên, việc thực hiện chế độ, chính sách đối với giáo viên được điều động, tăng cường, luân chuyển từ vùng có điều kiện thuận lợi lên công tác vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn còn gặp một số vướng mắc như: một số địa phương không thực hiện được việc bố trí giáo viên trở lại nơi công tác ban đầu sau điều động; có sự chênh lệch về chế độ phụ cấp giữa giáo viên luân chuyển từ nơi khác đến với nhà giáo sinh sống và công tác tại địa bàn vùng khó khăn khi hưởng phụ cấp thu hút theo Nghị định số 19/2013/NĐ-CP.
Một số cơ sở giáo dục kinh phí chi được cấp theo số lượng người làm việc thực tế (số người hiện có), không được cấp theo định biên được giao hoặc cấp theo định mức quy định nên khó khăn trong việc hợp đồng thêm giáo viên, nhân viên làm việc hoặc chi trả tiền thừa giờ cho giáo viên. Có địa phương cấp kinh phí chi thường xuyên giáo viên còn thấp, gây khó khăn cho các nhà trường trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục hoặc chi trả tiền công tác phí cho giáo viên khi phải đi công tác.
Giáo viên công tác ở các xã khu vực III đạt chuẩn nông thôn mới thôi hưởng hỗ trợ, làm ảnh hưởng đến mức sống, điều kiện sinh hoạt và tâm lý gắn bó với nghề nên có một số giáo viên đã xin chuyển vùng công tác.
Một số chế độ chính sách cho người học được ban hành có thời gian thực hiện đã lâu, các định mức chi trả không còn phù hợp với mức chi tiêu hiện nay cần được điều chỉnh, bổ sung như các chế độ trong Thông tư số 109/2009/TTLT-BTC- BGDĐT ngày 29/5/2009 hướng dẫn một số chế độ tài chính đối với học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú và trường dự bị đại học dân tộc, mức học bổng chính sách tại Thông tư số 109/2009/TTLT-BTC-BGDĐT đã được thay thế và quy định tại Nghị định số 84/2020/NĐ-CP, tuy nhiên mức học bổng chính sách được giữ nguyên không tăng; trợ cấp xã hội cho học sinh người dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu, vùng xa theo Quyết định số 121/1997/QĐ-TTg ngày 23/12/1997 của Thủ tướng Chính phủ về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên các trường đào tạo công lập, mức học bổng chính sách đối với sinh viên đào tạo theo chế độ cử tuyển được quy định tại Nghị định số 84/2020/NĐ-CP: mức hỗ trợ học sinh ở xã, thôn đặc biệt khó khăn theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP còn thấp, chưa đáp ứng được điều kiện ăn, ở và học tập của học sinh...
Không có lộ trình thôi hưởng chính sách hỗ trợ tiền ăn cho trẻ mẫu giáo, học sinh đối với các xã khu vực III đạt chuẩn nông thôn mới, dẫn đến nguy cơ ảnh hưởng việc đến việc huy động trẻ trong độ tuổi đi học, ảnh hưởng đến công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ.
Về chất lượng giáo dục, chất lượng giáo dục vùng Tây Nguyên còn thấp hơn mặt bằng chung của cả nước. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giáo dục đào tạo của vùng còn gặp rất nhiều khó khăn. Hầu hết các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục của vùng đều thấp hơn chỉ tiêu chung của các nước và các khu vực khác. Tỷ lệ học sinh bỏ học, nghỉ học còn cao hơn trung bình cả nước.
Chất lượng dạy học môn tiếng dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được kỳ vọng. Các địa phương còn thiếu các hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, sinh hoạt chuyên môn thường xuyên và định kỳ dẫn tới hạn chế về chất lượng của đội giáo viên tiếng dân tộc thiểu số.
Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, nhất là nhân lực các ngành khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục. Tại báo cáo về Tổng điều tra dân số năm 2019, tỷ lệ lao động qua đào tạo có trình độ từ sơ cấp trở lên của vùng Tây Nguyên còn thấp hơn 6,8% so với bình quân cả nước, và chỉ cao hơn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học tuy tăng nhưng vẫn còn thấp so với cả nước. Đây là rào cản trong phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trong vùng.