Tổng hợp những điểm mới trong hướng dẫn về bổ nhiệm, thăng hạng theo Thông tư 08

09/08/2023 06:42
Bùi Nam
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Giáo viên TH, THCS hạng II cũ (hệ số lương 2,34-4,98) công tác đủ 9 năm sẽ được bổ nhiệm hạng II mới (hệ số lương 4,0-6,38 không cần đủ 9 năm có trình độ ĐH.

Ngày 14/4/2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư số 01/2021/TT-BGDĐT, 02/2021/TT-BGDĐT, 03/2021/TT-BGDĐT, 04/2021/TT-BGDĐT ngày 02/02/2021 (Thông tư 08) quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập.

Thông tư 08 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/5/2023. Trong quá trình triển khai có một số vướng mắc, nhiều địa phương có cách hiểu và vận dụng khác nhau, nhiều địa phương cũng gửi câu hỏi thắc mắc, băn khoăn về Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ hỏi về việc bổ nhiệm, chuyển xếp lương.

Ảnh minh họa: Giaoduc.net.vn

Ảnh minh họa: Giaoduc.net.vn

Mới nhất, tối ngày 4/8, Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo có văn bản giải đáp một số vấn đề trong quá trình triển khai thực hiện Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT thời gian qua.

Cùng nhìn lại những điểm mới đáng ghi nhận được Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn khi thực hiện chuyển xếp lương theo Thông tư 08/2023 sửa đổi, bổ sung chùm Thông tư 01-04/2021 (hiện nay đã được hợp nhất bằng các Văn bản hợp nhất 08,09,10,11/VBHN-BGDĐT).

Hiện nay, thi hay xét thăng hạng do cấp có thẩm quyền quyết định

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giải đáp về đề nghị bỏ thi thăng hạng như sau:

Các quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức các ngành/lĩnh vực thực hiện theo quy định chung của Quốc hội tại Luật Viên chức 2010 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. Đồng thời, thực hiện theo hướng dẫn chi tiết của Chính phủ tại Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2023 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.

Theo đó, việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng thấp lên hạng cao hơn liền kề trong cùng lĩnh vực nghề nghiệp được thực hiện thông qua hình thức thi và xét (khoản 2 Điều 31 Luật Viên chức 2010 và khoản 2 Điều 29 Nghị định số 115/2020/NĐ-CP).

Việc tổ chức thăng hạng chức danh nghề nghiệp bằng hình thức thi hay xét tại địa phương là theo lựa chọn của cơ quan, đơn vị có thẩm quyền tổ chức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.

Bộ Giáo dục và Đào tạo không có thẩm quyền bỏ quy định thi thăng hạng chức danh giáo viên và cũng không có thẩm quyền đề nghị địa phương thực hiện thống nhất theo một hình thức là xét thăng hạng.

Tuy nhiên, đề xuất của giáo viên về việc bỏ hình thức thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp là có căn cứ.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhận được văn bản gửi xin ý kiến từ Bộ nội vụ về việc bỏ hình thức thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp trong dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2020/NĐ-CP, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản trả lời nhất trí với nội dung này. Hiện Bộ Nội vụ đang tham mưu Chính phủ bỏ hình thức thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị địa phương căn cứ tình hình thực tiễn cân nhắc, lựa chọn hình thức phù hợp để tổ chức thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ và bảo đảm xác định được những giáo viên thực sự xứng đáng để thăng hạng chức danh nghề nghiệp trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật.

Hiện nay, phân cấp thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp được quy định tại Điều 33 Nghị định 115/2020/NĐ-CP

Điều 33. Phân công, phân cấp tổ chức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp cao hơn liền kề trong cùng lĩnh vực sự nghiệp

1. Bộ quản lý chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành chủ trì tổ chức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng I, sau khi có ý kiến của Bộ Nội vụ về nội dung đề án và chỉ tiêu thăng hạng.

2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì tổ chức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng II, sau khi có ý kiến của Bộ Nội vụ về nội dung đề án và chỉ tiêu thăng hạng.

3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định về chỉ tiêu thăng hạng và tổ chức hoặc phân cấp, ủy quyền cho các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng III và hạng IV.

4. Việc phân công, phân cấp tổ chức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp trong các đơn vị sự nghiệp công lập của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền của Đảng.

Bổ nhiệm từ hạng cũ sang hạng mới chỉ căn cứ vào 2 tiêu chuẩn ở Điều 7 Văn bản hợp nhất 08,09,10/VBHN-BGDĐT

Một số địa phương khi bổ nhiệm, chuyển xếp giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở sang chức danh nghề nghiệp tương ứng vẫn yêu cầu giáo viên phải nộp chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, chứng chỉ tin học, chứng chỉ ngoại ngữ. Điều này khiến việc bổ nhiệm, chuyển xếp chức danh nghề nghiệp còn khó khăn, chưa đồng bộ.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giải đáp: Việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở thực hiện theo quy định tại Điều 7 các Thông tư số 01,02,03/2021/TT-BGDĐT đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 9 Điều 1, khoản 7 Điều 2, khoản 8 Điều 3 Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT (hiện nay là theo Điều 7 Văn bản hợp nhất 08,09,10/VBHN-BGDĐT).

Theo đó, khi thực hiện việc bổ nhiệm, chuyển xếp hạng chức danh nghề nghiệp từ quy định cũ sang hạng chức danh nghề nghiệp tương ứng theo quy định tại các Thông tư số 01/2021/TT-BGDĐT, 02/2021/TT-BGDĐT, 03/2021/TT-BGDĐT chỉ căn cứ vào tiêu chuẩn trình độ đào tạo và thời gian giữ hạng thấp hơn liền kề, không yêu cầu giáo viên phải có minh chứng là chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của hạng được bổ nhiệm và các chứng chỉ tin học, ngoại ngữ đối với tiêu chuẩn về khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và khả năng sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc thiểu số theo yêu cầu của vị trí việc làm.

Cần lưu ý thêm, khoản 2 Điều 5 Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT đã quy định “không yêu cầu giáo viên phải cung cấp minh chứng về việc thực hiện nhiệm vụ của hạng khi bổ nhiệm vào hạng tương ứng theo quy định tại các Thông tư số 01/2021/TT-BGDĐT, 02/2021/TT-BGDĐT, 03/2021/TT-BGDĐT, 04/2021/TT-BGDĐT”.

Như vậy cơ bản hướng dẫn đã rõ khi khi bổ nhiệm từ hạng cũ sang hạng mới giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở dựa vào 2 yếu tố chỉ căn cứ vào tiêu chuẩn trình độ đào tạo và thời gian giữ hạng thấp hơn liền kề, không yêu cầu giáo viên phải có minh chứng là chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của hạng được bổ nhiệm và các chứng chỉ tin học, ngoại ngữ đối với tiêu chuẩn về khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và khả năng sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc thiểu số theo yêu cầu của vị trí việc làm.

Giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng II cũ đủ 9 năm công tác sẽ được bổ nhiệm hạng II mới

Về việc xác định tổng thời gian giữ hạng (đủ từ 9 năm) để làm căn cứ bổ nhiệm, chuyển xếp từ chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng II cũ sang chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng II mới còn chưa thực hiện thống nhất ở một số nơi. Một số địa phương yêu cầu 9 năm này phải là 9 năm giáo viên đã đạt trình độ đại học.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có giải đáp: Theo quy định sửa đổi bổ sung tại Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT, điều kiện để giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng II cũ được chuyển xếp sang chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng II mới là có tổng thời gian giữ hạng III cũ và hạng II cũ đủ từ 9 (chín) năm trở lên (không kể thời gian tập sự).

Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo không quy định điều kiện về trình độ đào tạo là đại học đối với tổng thời gian giữ hạng này. Do đó, việc một số địa phương yêu cầu 9 năm giữ hạng III cũ và hạng II cũ phải là 9 năm giáo viên đã đạt trình độ đại học là không đúng.

Như vậy, giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng II cũ (hệ số lương 2,34-4,98) công tác đủ 9 năm sẽ được bổ nhiệm hạng II mới (hệ số lương 4,0-6,38) mà không cần đủ 9 năm có trình độ đại học.

Để thăng hạng từ giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng III cũ lên hạng II cũng không cần 9 năm có trình độ đại học

Về việc xác định thời gian tương đương với thời gian giữ chức danh nghề nghiệp hạng III mới khi xét tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng III lên hạng II cũng chưa được thực hiện thống nhất giữa các địa phương.

Vấn đề này được Bộ Giáo dục và Đào tạo giải đáp: Theo quy định sửa đổi bổ sung tại Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT, quy định thời gian giữ hạng IV cũ và III cũ được xác định tương đương với thời gian giữ hạng III mới từ thời điểm giáo viên đạt trình độ chuẩn được đào tạo theo quy định của cấp học.

Như vậy, khi giáo viên tiểu học, trung học cơ sở đạt trình độ chuẩn được đào tạo của cấp học (là trình độ đại học), thì thời gian giữ các hạng cũ trước đây (bao gồm cả các thời gian tương đương khác) được xác định là tương đương với thời gian giữ hạng III mới.

Như vậy, một giáo viên tiểu học, trung học cơ sở đang ở hạng III mới nếu có đủ 9 năm công tác thì sẽ được xem như đủ tiêu chuẩn về thời gian giữ hạng để thi, xét thăng hạng từ hạng III lên hạng II.

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

Bùi Nam