2019 là năm bản lề thực hiện chiến lược giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và cũng là năm “nước rút” của ngành Giáo dục nhằm chuẩn bị các điều kiện triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới từ năm học 2020-2021 đối với lớp 1.
Nhìn lại một năm “bận rộn” của ngành Giáo dục có thể thấy, đang có những chuyển biến trong công tác quản lý ngành từ “gốc” - khi xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, tháo gỡ những “nút thắt” trong quản lý trở thành nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành và đã đạt được hiệu quả rõ rệt.
2 Luật được Quốc hội thông qua
Trao đổi với Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết, chỉ trong 2 năm 2018-2019, 2 Luật quan trọng có tác động sâu sắc tới ngành Giáo dục được Quốc hội thông qua, đó là Luật Giáo dục năm 2019 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
Giáo sư Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. |
Quan điểm và mục tiêu xây dựng Luật là nhằm thể chế hóa các quan điểm và định hướng của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 với những nội dung liên quan đến phát triển giáo dục và đào tạo, bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ, tính toàn diện, khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Đồng thời, khắc phục được một số khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi Luật, đảm bảo tính kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật hiện hành về lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Luật Giáo dục năm 2019 (gồm 9 chương, 115 điều), thay thế Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2009.
So với quy định Luật Giáo dục hiện hành, Luật Giáo dục có 7 điểm mới cơ bản: Làm rõ tính liên thông, phân luồng, hướng nghiệp trong giáo dục; luật hóa chủ trương đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo Nghị quyết số 29-NQ/TW và Nghị quyết số 88/2014/QH13; bổ sung loại trường tư thục không vì lợi nhuận và việc chuyển đổi loại hình trường tư thục sang trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận; quy định cụ thể vị trí, chức năng, thành phần hội đồng trường; quy định nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và giảng viên đại học; quy định chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt đối với học sinh, sinh viên sư phạm; quy định chính sách về học phí đối với học sinh diện phổ cập; quy định về đầu tư và tài chính cho giáo dục.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2019 nhằm tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy thực hiện tự chủ đại học, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đảm bảo sự hội nhập quốc tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Luật đã quy định rõ hệ thống cơ sở giáo dục đại học gồm đại học và trường đại học, tiệm cận với thông lệ quốc tế, phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam, khắc phục một số vấn đề bất cập nhưng vẫn đảm bảo ổn định hệ thống để phát triển.
Luật cũng làm rõ vấn đề sở hữu, tạo sự bình đẳng giữa cơ sở giáo dục đại học công lập, tư thục và thúc đẩy sự phát triển của cơ sở giáo dục đại học tư thục.
Mở rộng phạm vi và hiệu quả của tự chủ đại học trong toàn hệ thống; trong đó, quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học trong việc xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học.
7 điểm mới trong Luật Giáo dục 2019 |
Chủ trương tăng cường tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát hợp lý chất lượng đào tạo, chú trọng quản lý đối với các ngành liên quan đến sức khỏe, đào tạo giáo viên, an ninh, quốc phòng. Đặc biệt, Hội đồng trường có thực quyền trong việc quyết định về tổ chức bộ máy, nhân sự.
Đổi mới cơ chế tài chính, tài sản đảm bảo thông thoáng và hiệu quả, phù hợp với từng loại hình cơ sở giáo dục đại học để tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ.
Đổi mới quản lý đào tạo để đảm bảo chất lượng, hiệu quả và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế.
Đổi mới quản lý Nhà nước trong điều kiện tự chủ đại học thông qua các công cụ quản lý như quy hoạch mạng lưới, ban hành chính sách, chiến lược, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục đại học; ban hành hệ thống chuẩn chất lượng, điều kiện đảm bảo chất lượng… để các trường tự chủ thực hiện.
Căn cứ vào kết quả kiểm định, năng lực của nhà trường và nhu cầu xã hội, các trường có quyền tự chủ mở ngành, tuyển sinh, tổ chức đào tạo và cấp bằng…
Hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục được quy định với trách nhiệm cụ thể của các bên liên quan; quy định về cơ sở kiểm định độc lập và công khai kết quả kiểm định, tỷ lệ việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp để được người học và xã hội lựa chọn.
Cơ sở giáo dục đại học có trách nhiệm minh bạch thông tin và thực hiện trách nhiệm giải trình theo quy định.
Cơ quan quản lý nhà nước quản lý theo pháp luật, quy chuẩn chất lượng; đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong giáo dục đại học theo quy định của pháp luật.
Gỡ dần những "nút thắt" cho giáo viên
Năm 2019 mở hàng bằng phát ngôn ấn tượng của người đứng đầu ngành Giáo dục, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ - “đây là năm giảm áp lực cho giáo viên”.
Cụ thể, khi đề cập đến việc giảm áp lực cho giáo viên, người đứng đầu ngành cho rằng, phải bắt đầu từ thay đổi trong các quy định đang “trói buộc” giáo viên vào các áp lực không đáng có như sổ sách giấy tờ hay các cuộc thi giáo viên giỏi nặng về trình diễn, thiếu thực chất và xa hơn nữa là hoàn thiện cơ chế chính sách về thu nhập, chế độ đãi ngộ, tạo động lực cho giáo viên.
Giảm áp lực giáo viên, Bộ quyết tâm nhưng có địa phương vẫn ngó lơ |
Nhìn lại năm 2019, “lời hứa giảm áp lực” của Bộ trưởng với giáo viên đã bước đầu được thực hiện.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chỉ thị về việc chấn chỉnh tình trạng lạm dụng hồ sơ trong nhà trường. Đến nay qua kiểm tra, hầu hết các địa phương đã có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai Chỉ thị; nhiều địa phương, cơ sở giáo dục tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, sử dụng hồ sơ điện tử thay cho hồ sơ, sổ sách giấy.
Thông tư quy định công nhận giáo viên dạy giỏi, giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi các cấp mầm non, phổ thông đã được rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, lấy ý kiến rộng rãi giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và chuẩn bị ban hành.
Theo đó, nội dung thi giáo viên giỏi sẽ được giảm tải mạnh so với quy định hiện hành. Thay vì phải báo cáo, làm bài thi, thực hành dạy hai tiết như trước, người thi giáo viên dạy giỏi chỉ cần thực hiện hai nội dung là thực hành một hoạt động giáo dục hay dạy học một tiết và trình bày biện pháp giảng dạy có hiệu quả trong nhà trường, thời lượng không quá 30 phút.
Quy định hiện tại, giáo viên phổ thông tham dự hội thi giáo viên dạy giỏi phải báo cáo sáng kiến kinh nghiệm hoặc kết quả nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng được đánh giá trong 4 năm gần nhất; làm một bài kiểm tra năng lực hiểu biết về kiến thức chuyên môn hoặc nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm; thực hành giảng dạy hai tiết trong chương trình, trong đó có một tiết tự chọn và một tiết do ban tổ chức bốc thăm.
Đặc biệt, quy định mới đảm bảo tính tự nguyện tham gia cuộc thi cho giáo viên, không lấy thành tích của cá nhân để tính cho thành tích tập thể, đảm bảo không có sự ép buộc trong việc tham gia thi giáo viên dạy giỏi như đã xảy ra trong thời gian vừa qua.
Năm 2019, thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ về xây dựng bảng lương mới cho công chức, viên chức, trong đó có đội ngũ giáo viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang triển khai nhiệm vụ này theo các quy định chặt chẽ gắn với yêu cầu về đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Bởi chỉ có giải quyết được nút thắt về chế độ, chính sách lương, thu nhập cho nhà giáo thì mới có thể tạo ra động lực lâu dài, gắn với những đòi hỏi về nâng cao chất lượng đội ngũ trong giai đoạn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Chia sẻ về việc xây dựng bảng lương mới, ông Hoàng Đức Minh, Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, bậc lương mới của giáo viên sẽ gắn với trình độ đào tạo theo hệ thống thang bậc lương chung nhưng có phụ cấp ưu đãi nghề.
Bảng lương làm việc trả theo vị trí việc làm và theo tính chất phức tạp của nghề nghiệp. Ngành Giáo dục không có bảng lương riêng so với các ngành nghề khác, nhưng định vị các bậc lương theo thực tiễn trình độ đào tạo đã được nâng lên theo chuẩn yêu cầu. Đây cũng là căn cứ để khởi đầu cho bậc lương ở bậc mầm non, tiểu học, trung học. Theo một cách logic, như vậy mức lương đã được nâng lên so với hiện nay.
Ngành duy nhất ngoài ngành Tư pháp có hội nghị riêng về công tác pháp chế
Nếu chọn một trong những điểm nhấn quan trọng trong năm 2019 của ngành Giáo dục sẽ không thể không nhắc tới công tác pháp chế.
Không chỉ là đơn vị chủ trì xây dựng 2 Luật quan trọng được Quốc hội thông qua, trong năm học 2018-2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo còn chủ trì soạn thảo, trình cấp có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền tổng số 42 văn bản gồm 03 Nghị định và 02 Nghị quyết của Chính phủ, 09 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 28 Thông tư của Bộ trưởng; ban hành nhiều quyết định và kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ năm học 2018-2019.
Nhìn nhận về công tác pháp chế ngành Giáo dục tại Hội nghị công tác pháp chế ngành giáo dục năm 2019, ông Chu Đức Nhuận, Vụ trưởng Vụ Khoa giáo Văn xã (Văn phòng Chính phủ) cho biết, thời gian qua, công tác pháp chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai đồng bộ, bài bản, đúng pháp luật; đồng thời đảm bảo tính hệ thống, thống nhất, dù số lượng văn bản ban hành rất lớn.
Đánh giá cao việc Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị pháp chế, ông Nhuận cho rằng, ngoài Bộ Tư pháp, chưa có Bộ nào tổ chức hội nghị chuyên đề pháp chế nhằm tìm giải pháp nâng cao chất lượng công tác này như Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Chia sẻ về tầm quan trọng của công tác pháp chế ngành Giáo dục, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho rằng, chúng ta đang chỉ đạo một lĩnh vực quá rộng lớn, liên quan đến từng người, từng nhà, các địa phương…
Nếu không có hệ thống văn bản pháp lý đầy đủ, hợp lý, có tính thực tiễn cao để chỉ đạo điều hành sẽ rất khó khăn. Muốn xây dựng hệ thống văn bản tốt, phải nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, có đánh giá tác động để đảm bảo tính khả thi của văn bản.
"Muốn xây dựng hệ thống văn bản tốt, phải nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, có đánh giá tác động để đảm bảo tính khả thi của văn bản”. |
Cùng xây dựng văn bản, công tác rà soát các văn bản đã ban hành để chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn cũng là việc phải làm thường xuyên.
Để văn bản đi vào cuộc sống, Bộ trưởng nhấn mạnh tới công tác tuyên truyền và cho rằng đây là khâu còn yếu của ngành Giáo dục.
“Có một thực tế là văn bản ban hành xong ít được để ý hướng dẫn, đôn đốc quán triệt để những người chịu tác động, những người thực hiện nắm được.
Công tác kiểm tra, thanh tra thực hiện văn bản để biết văn bản có sát thực tế không, có được thực hiện tốt không dù đã được làm nhưng còn mờ. Văn bản phải đi vào thực tế”.
Ngành Giáo dục đã có thêm một năm chuyển động tích cực về hoạt động pháp chế, hay nói cách khác, đang có những chuyển biến trong công tác quản lý ngành từ “gốc” - khi xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, tháo gỡ những “nút thắt” trong quản lý trở thành nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành và đã đạt được hiệu quả rõ rệt.
Tuy nhiên, đây là việc phải được triển khai tích cực và hiệu quả hơn nữa, đảm bảo tính khả thi, thực tiễn của chính sách.
Trước mắt sẽ là việc tổ chức soạn thảo, trình các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy định chi tiết Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục năm 2019; rà soát các văn bản hiện hành để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế nhằm đảm bảo phù hợp với các nội dung của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục năm 2019.