Công bố quốc tế có giúp giáo sư, tiến sĩ Việt Nam sánh vai cùng bạn bè năm châu?

07/03/2017 07:18
Nguyễn Thị Lan Hương
(GDVN) - Hãy chứng minh năng lực của các giáo sư hiện tại đủ tốt để hướng dẫn nghiên cứu sinh làm nghiên cứu và công bố quốc tế.

LTS: Nghiên cứu sinh về giáo dục Hoa Kỳ, Nguyễn Thị Lan Hương chia sẻ góc nhìn của mình về những quy định về chức danh giáo sư, tiến sỹ và việc công bố nghiên cứu khoa học ra quốc tế.

Theo đó, tác giả đặt câu hỏi về việc chứng minh các giáo sư hiện tại đủ năng lực để làm người hướng dẫn cho nghiên cứu sinh thực hiện công bố quốc tế hay không?

Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết!

Vào cuối năm 2016, trong hội nghị bàn về quy định đào tạo tiến sỹ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra phương án “muốn bảo vệ tiến sỹ, phải có công bố quốc tế”. 

Lập luận của yêu cầu này là để nâng cao chất lượng tiến sỹ, hội nhập với thế giới. Theo đó, tiêu chuẩn của người hướng dẫn làm nghiên cứu cũng cần được nâng tiêu chuẩn, cũng cần có công bố quốc tế.

Chưa vội bàn đến việc công bố quốc tế trước hay sau bảo vệ tiến sỹ là hợp lý, trong toàn bộ nội dung hội nghị bàn về vấn đề này những người tham gia, chúng ta chưa đưa ra bất kỳ nghiên cứu thực tế nào về đào tạo tiến sỹ và chất lượng đào tạo, trong bối cảnh Việt Nam đã có 24.000 tiến sỹ được công nhận trong hơn 20 năm qua.

Nếu chúng ta chưa có nghiên cứu nào ở Việt Nam, việc tham khảo nghiên cứu đã có ở một số nước khác làm so sánh đối chứng có lẽ cũng hữu ích trong trường hợp này, nhưng tiếc là chúng ta có vẻ cũng chưa có một tổng kết cụ thể nào về kinh nghiệm của các nước về đào tạo tiến sỹ và công nhận giáo sư. 

Dự thảo tiêu chuẩn công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư buộc Việt Nam phải phát triển năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế. (Ảnh: Văn Chung/ Vietnamnet.vn)
Dự thảo tiêu chuẩn công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư buộc Việt Nam phải phát triển năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế. (Ảnh: Văn Chung/ Vietnamnet.vn)

Đến đầu năm 2017, yêu cầu về công bố quốc tế được bàn đến trong “dự thảo quy định tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư tại Việt Nam".

Trả lời trên VietNamNet, ông Nguyễn Hữu Đức (Đại học Quốc gia Hà Nội), cho rằng đây là dự thảo quy định ở mức “tối thiểu” nhằm “buộc” Việt Nam phải phát triển năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế

Công bố quốc tế có giúp giáo sư, tiến sĩ Việt Nam sánh vai cùng bạn bè năm châu? ảnh 2

"Thú thật, tôi rất ngại tham gia hội đồng chấm luận án tiến sĩ"

Theo ông Đức, “nhóm soạn thảo chắc cũng đã có thống kê dựa trên số liệu công nhận GS, PGS những năm gần đây và tiêu chí đó cũng mới nằm ở đỉnh phổ thống kê mà thôi”.

Trong toàn văn chia sẻ của GS. Đức về quy định công bố quốc tế và công nhận giáo sư sửa đổi lần này, cá nhân tôi hoàn toàn hiểu những mong muốn và quyết tâm hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng nghiên cứu và công bố của Việt Nam của những người làm nghiên cứu trong giai đoạn “toàn cầu hóa” hiện nay.

Về việc công bố quốc tế, dù là ở cấp độ bảo vệ luận án tiến sỹ hay ở công nhận chức danh giáo sư, tôi rất mong có những khảo sát thực tiễn từ quốc tế (lấy ví dụ, 30% công bố nghiên cứu khoa học là từ Mỹ) để Việt Nam tham khảo.

Nếu không có những khảo sát từ các nước có nền tảng phát triển về nghiên cứu khoa học và công bố, các đề xuất công bố quốc tế đều sẽ khó khả thi. 

Bởi chúng ta chưa đưa ra được định nghĩa thế nào là “công bố quốc tế”, tại sao phải cần có công bố quốc tế trước khi bảo vệ tiến sỹ, công bố quốc tế có ứng dụng thực tiễn cho Việt Nam hay không? 

Năng lực nghiên cứu nội địa đã đủ đáp ứng tiêu chuẩn công bố quốc tế ở mức độ nào?...

Và cơ bản nhất, mục tiêu trọng tâm phát triển khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội của Việt Nam trong 5 - 10 năm tới là gì và công bố quốc tế có thúc đẩy chúng ta đạt được mục tiêu này hay không?

Khi chưa có những câu trả lời cho những vấn đề trên, chúng ta đã phải đối mặt với thực tế sau :

- Theo Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước, chúng ta có chưa tới 40% tân Giáo sư và Phó Giáo sư năm 2016 có công bố quốc tế. 

Những con số này chưa chỉ ra cụ thể là có bao nhiêu công bố quốc tế được thực hiện dưới hình thức “co-authors” (đồng tác giả) với các đối tác nghiên cứu nước ngoài.

- Thống kê từ các đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ trọng điểm có ngân sách của nhà nước cho thấy, để có một bài báo quốc tế từ các đề tài này cần đầu tư 10 tỷ đồng. 

Đây là con số khá đắt đỏ ngay cả khi so sánh với chi phí đầu tư nghiên cứu khoa học cơ bản của Mỹ và trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay.

- Hạn chế ngoại ngữ, thiếu năng lực và kỹ năng làm nghiên cứu của nghiên cứu sinh cùng với năng lực hướng dẫn nghiên cứu của người hướng dẫn là ba nguyên nhân cơ bản (đã được chỉ ra) làm cho việc chất lượng đào tạo tiến sỹ của Việt Nam “thấp”, và chưa đi cùng với bất kỳ chuẩn nào của khu vực hay thế giới.

Tôi muốn chia sẻ một số thực tiễn của Mỹ trong khi học và làm nghiên cứu sinh chuyên ngành quốc tế giáo dục, để chúng ta có thêm thông tin tham khảo:

- Ở Mỹ, giáo sư phải thực hiện tối thiểu 3 nhóm công việc: Giảng dạy – hướng dẫn nghiên cứu và các hoạt động công tác phát triển cộng đồng học thuật.

Tùy theo từng định hướng của trường, sẽ có giáo sư dạy nhiều hơn, nhưng sẽ có trường yêu cầu làm nghiên cứu và công bố nhiều hơn (Northwestern University và hầu hết các trường nghiên cứu Top 60 của Mỹ).

Nghiên cứu của Northwestern đã chỉ ra, có thể giáo sư dạy rất tốt, nhưng nghiên cứu lại dở hoặc ngược lại, và điều này không chỉ phụ thuộc vào giáo sư, mà còn phụ thuộc vào chính sách/ngân sách nghiên cứu, môi trường nghiên cứu và năng lực nghiên cứu.

- Khi chúng ta không có quy định cụ thể về công bố quốc tế là thế nào, sẽ dễ gây ra nhiều “lộn xộn” sau này. 

 

TS.Nguyễn Văn Khải: “Tôi biết có nhiều Tiến sĩ dởm”

Lấy ví dụ như ở Mỹ, giáo sư trong lĩnh vực giáo dục không cần có công bố quốc tế, mà tự bản thân giáo sư, muốn có uy tín trong chuyên ngành hoặc liên ngành tại Mỹ, họ phải có nghiên cứu, phải lấy được funding (tài trợ nghiên cứu), giảng dạy và có dự án hợp tác quốc tế thì mới có uy tín trong lĩnh vực mình nghiên cứu hoặc giảng dạy.

Hơn thế nữa, cũng cần nói thêm là trong mảng nghiên cứu khoa học xã hội, Mỹ công nhận rất nhiều phương pháp nghiên cứu xã hội mà hiện ở Việt Nam chưa phổ biến. 

Vậy, sẽ có chuyện xảy ra là nghiên cứu theo phương pháp nước ngoài công nhận mà về Việt Nam lại không được công nhận do chưa có phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội này ở Việt Nam.

Từ những thực tế trên của Mỹ, liệu chúng ta có thể có những khảo sát nhanh từ các nước, và tư duy thực tế hơn về việc với năng lực dạy và nghiên cứu của chúng ta hiện nay, ngành nào sẽ hướng đến công bố quốc tế là thích hợp (ví dụ, khoa học kỹ thuật), và ngành nào khuyến khích công bố có yếu tố quốc tế (dưới hình thức hợp tác nghiên cứu và công bố ở tạp chí nước ngoài, hoặc công bố ở Việt Nam nhưng thực hiện nghiên cứu với các nhà nghiên cứu nước ngoài, như các ngành khoa học xã hội)?

Hay có nên là hãy tập trung vào dạy các phương pháp nghiên cứu và công bố khoa học mà các nước phát triển khoa học đang ứng dụng trước (cho tất cả các chương trình đào tạo tiến sỹ và được chứng nhận bởi các tổ chức nghiên cứu quốc tế), rồi mới đến yêu cầu công bố quốc tế cho các nhà nghiên cứu (gồm cả chức danh giáo sư)?

Ngay ở Mỹ hiện nay, để khuyến khích đa dạng hóa nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục và khoa học xã hội, các giáo sư được khích lệ làm nghiên cứu chung với các nghiên cứu sinh là sinh viên quốc tế, nhằm thúc đẩy những hiểu biết và chia sẻ những khác biệt giữa các nền tảng văn hóa, tư duy và thậm chí, cách tiếp cận vấn đề, chứ không chỉ thuần túy là công bố trên tạp chí khoa học. 

Vậy, với Việt Nam, liệu có nên chăng, chúng ta tập trung vào cơ chế khuyến khích sự hợp tác và nghiên cứu giữa các nghiên cứu sinh với người hướng dẫn là giáo sư nước ngoài, giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam với các nhà nghiên cứu nước ngoài, tổ chức nước ngoài có uy tín, và để giải quyết những thách thức của Việt Nam mà quốc tế cũng quan tâm, mặc dù những nghiên cứu này có thể công bố ở Việt Nam nhưng được nước ngoài công nhận? 

Những nỗ lực thu hút sinh viên, nghiên cứu sinh hay nhà nghiên cứu nước ngoài đến Việt Nam học tập và nghiên cứu về Việt Nam là một cách rất hữu ích để thúc đẩy việc làm nghiên cứu mà được quốc tế hóa ngay tại các đại học Việt Nam. 

Các đại học có yếu tố nước ngoài, các chương trình liên kết với nước ngoài, đều là những kênh để thúc đẩy nghiên cứu và công bố có yếu tố nước ngoài, mà chúng ta có thể khai thác một cách hiệu quả mà không cần đến chi phí quá đắt đỏ.

Tôi thiết nghĩ quy định nào cũng sẽ chỉ là quy định “chết”, dù ở Anh, Mỹ hay Việt Nam, nếu chúng ta không có được cơ chế phù hợp thúc đẩy những người đam mê nghiên cứu làm nghiên cứu, và nếu chúng ta không tạo dựng được môi trường khuyến khích nghiên cứu vì lợi ích của đất nước.

Quay trở lại với công bố quốc tế ở Việt Nam cho đào tạo tiến sỹ hay công nhận giáo sư, theo tôi, trước khi quyết định theo đường hướng nào, hãy làm nghiên cứu! 

Hãy chứng minh được qua nghiên cứu thực tiễn của Việt Nam và dẫn chứng từ thế giới về năng lực của các giáo sư hiện tại đủ tốt để hướng dẫn nghiên cứu sinh làm nghiên cứu và công bố quốc tế. 

Nếu chưa được thế, cơ chế nào để chúng ta mời những giáo sư nước ngoài, những nhà nghiên cứu có uy tín tham gia cùng với chúng ta? 

Sự thật bất ngờ bên trong Học viện 'mỗi ngày 1 tiến sĩ'

Ở Mỹ, trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách về giáo dục, hầu hết các đề xuất chính sách phải dựa trên nền tảng của nghiên cứu khoa học độc lập mà thường được gọi là “cơ sở khoa học nghiên cứu” (research – based evidence hay evidence-base), do nhiều trường đại học hay viện nghiên cứu độc lập thực hiện và tham gia phản biện.

Mặc dù Mỹ có hơn 5.000 trường đại học được kiểm định, chỉ có khoảng 200 trường có hoạt động nghiên cứu nghiêm túc và những giáo sư hàng đầu trong từng ngành/lĩnh vực cụ thể. 

Tên tuổi của các trường như Harvard, Stanford, Yale, University of Colorado, hay Michigan State University khá nổi tiếng không chỉ vì lịch sử của họ, mà vì những giáo sư và dự án nghiên cứu đề xuất chính sách hay phản biện chính sách giáo dục do Chính phủ hoặc Quốc hội đặt hàng.

Vậy, liệu đã đến lúc, chúng ta (và Bộ Giáo dục và Đào tạo) nên có những nghiên cứu độc lập để hỗ trợ và phản biện những đề xuất cải cách giáo dục hoặc những quy định trong lĩnh vực giáo dục (ví dụ như, đào tạo tiến sỹ hay công nhận chức danh giáo sư như thế này), hay chưa?

Tài liệu tham khảo:

[1] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/muon-bao-ve-tien-si-phai-co-cong-bo-khoa-hoc-quoc-te-339288.html

[2] http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/viet-nam-co-hon-24-000-tien-si-3393238.html

[3] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/du-thao-moi-ve-quy-dinh-tieu-chuan-giao-su-pho-giao-su-khong-doi-moi-se-tu-dao-thai-354179.html; http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/phai-co-cong-bo-quoc-te-moi-duoc-phong-giao-su-pho-giao-su-353462.html

[4] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/chua-toi-40-gs-pgs-nam-2016-co-cong-bo-khoa-hoc-quoc-te-338106.html

[5] http://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/14-chi-phi-nghien-cuu-khoa-hoc-la-cong-tac-phi-hoi-nghi-hoi-thao-325943.html

[6] http://dvhnn.org.vn/mobi/bai_vietmb_Mot-so-y-kien-ve-dao-tao-bac-hoc-Tien-si_27_9350.html;

[7] https://www.brookings.edu/research/are-great-teachers-poor-scholars/

[8] https://www.theguardian.com/higher-education-network/2015/dec/11/bad-phd-supervisors-can-ruin-research-so-why-arent-they-accountable

[9] http://www.bc.edu/research/cihe/about/pga.html

[10] http://scholarcommons.usf.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1002&context=oa_textbooks; https://www.nap.edu/read/10322/chapter/2;

[11] http://www.acenet.edu/news-room/Pages/Intlz-in-Action-2013-June.aspx

[12] http://www.pewtrusts.org/~/media/assets/2014/11/evidencebasedpolicymakingaguideforeffectivegovernment.pdf

Nguyễn Thị Lan Hương