Người bạn lớn của GS Ngô Bảo Châu 'giải bài toán' lương giáo viên

13/02/2013 07:00
Theo Quý Hiền (Tiền Phong)
Giáo sư Vũ Hà Văn (ĐH Yale, Mỹ), chuyên gia hàng đầu thế giới về toán rời rạc không chỉ trăn trở về việc đào tạo thế hệ kế cận của nền toán học Việt Nam mà còn thử giải bài toán về lương cho giáo viên, nguồn thu cho trường học.
LTS: Tiếp tục bàn về vấn đề lương giáo viên, sau bài viết về GS-TSKH-NGND Hoàng Xuân Sính, Giaoduc.net.vn xin đăng tải lại bài phỏng vấn GS Vũ Hà Văn dưới đây. Cùng với GS Ngô Bảo Châu (SN 1972), GS Vũ Hà Văn (SN 1970) là một nhà toán học người Việt hàng đầu thế giới hiện nay. Trong nền toán học Việt hiện nay, có thể nói họ là hai người bạn lớn của nhau với những thành tựu toán học khiến thế giới không khỏi thán phục, dù tuổi đời còn rất trẻ... Xem thêm: Vũ Hà Văn: Nhà Toán học làm rạng danh non sông Việt Nam trên đất Mỹ

Phá cách để đãi ngộ người giỏi

Thưa giáo sư, nguồn để tạo nên đội ngũ kế toán cận cũng không phải là thiếu. Vấn đề là nhiều tiến sĩ toán của ta được đào tạo ở nước ngoài, nhưng khi về nước làm việc, họ không có thời gian cho nghiên cứu mà phải đi dạy thêm, đi luyện thi đại học...

GS Vũ Hà Văn: Thực trạng này là do chế độ trả lương của chúng ta. Lương chính thức của giáo sư các trường đại học công rất thấp. Không hiểu ngân sách thiếu thốn đến mức không thể trả lương đủ sống cho các giáo sư hay phân bổ tiền không khoa học? Trong khi đó, một số trường tư lại trả mức lương khá cao cho người giảng dạy.

GS Vũ Hà Văn
GS Vũ Hà Văn

Nhiều người cho rằng để tăng nguồn lực trả lương cho giảng viên các trường đại học nên nỗ lực khai thác ở các kênh khác, chẳng hạn thực hiện các nghiên cứu khoa học theo đơn đặt hàng. Giáo sư nghĩ sao?

GS Vũ Hà Văn: Nếu làm được như vậy cũng rất hay. Nhưng ta cũng cần đề phòng. Vấn đề là sản phẩm làm ra có phải lúc nào cũng là thành quả khoa học mới không, hay chỉ là ứng dụng công nghệ? 
Về lâu về dài, vẫn rất cần đầu tư dài hơn từ chính phủ hay các công ty lớn cho các ngành nghiên cứu cơ bản. Ở Mỹ chẳng hạn, chi phí cho hệ thống đại học công chủ yếu dựa vào chính phủ liên bang và bang. Công bằng mà nói, lương trung bình của giáo sư ở các nước phương Tây cũng không cao, so với mức sống của các nước sở tại. Lương khởi điểm của một kĩ sư làm cho một hãng tên tuổi có thể gấp đôi lương một giảng viên mới có bằng tiến sĩ. Nhưng quan trọng là dù không cao, mức lương đó đảm bảo được cuộc sống tối thiểu. Với những người đã theo đuổi nghiệp nghiên cứu thì bắt đầu như thế là đủ.

Một trong nhiều nguyên nhân khiến lương giáo viên thấp là do nguồn ngân sách hạn hẹp. Giáo sư thử vận dụng các công cụ toán ứng dụng của mình để giúp chính phủ làm một bài toán về lương, vừa phù hợp quỹ lương của nhà nước, vừa thu hút được người giỏi vào ngành sư phạm?

GS Vũ Hà Văn: Đây là một câu hỏi rất lớn và khó trả lời ngắn gọn. Lương là một bài toán chung của cả xã hội, chứ không riêng gì ngành sư phạm hay khoa học. Sự vô lí trong hệ thống lương ở nước ta dẫn đến nhiều bất cập, chẳng hạn, bổng nhiều hơn lương. Nhưng một khi bổng nhiều hơn lương thì thu nhập không phụ thuộc nhiều vào mức cống hiến nữa, mà là vào nhiều yếu tố khác. Bổng lộc đi liền với chức vụ, không khó để có thể suy ra những tiêu cực có thể xảy ra từ đó.
Nếu 1 trường đại học có được sự độc lập về tài chính, thì bằng mọi cách, kể cả dùng những đại ngộ rất đặc biệt, họ sẽ tìm cách mời các nhà chuyên môn giỏi về với mình, vì chỉ có những người đó mới có thể giúp cho ngôi trường tồn tại và phát triển. Đó là động lực tạo ra sự cạnh tranh về tay nghề, kiến thức giữa cá nhân, và sự cạnh tranh lành mạnh của các trường học. Nước Mỹ, với cách làm đó, đã và đang thu hút được chất xám từ khắp mọi nơi trên thế giới. Nếu nhiều nước trả lương theo thâm niên hoặc học hàm thì ĐH Mỹ trả lương theo năng lực.
Cần phân chia tiền hợp lý
Chi phí cho giáo dục của mỗi người dân hiện nay rất lớn, trong khi học phí rất thấp, đặc biệt là cấp bậc phổ thông. Chẳng hạn, việc học sinh Hà Nội phải đi học thêm là phổ biến mà phí học thêm không hề rẻ. Tiền học thêm 1 buổi (90 phút) của một học sinh phổ thông thường gấp đôi tiền học phí 1 tháng mà em đó phải đóng cho trường phổ thông công lập. Đó là chưa kể những lớp học thêm đặc biệt mà chi phí mỗi buổi của học sinh là cả hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu đồng. Giáo sư nghĩ sao về hiện tượng này?
GS Vũ Hà Văn: Đúng là ở Việt Nam, số tiền xã hội và cá nhân đóng góp vào việc học ở phổ thông rất lớn, nếu tính theo phần trăm thu nhập của người dân. Trong trường phổ thông, do lương cơ bản thấp nên nói chung nhiều giáo viên phải dạy thêm. Thật ra, đây là một cách xã hội tự cân bằng. Xét về lợi ích của người đi học, việc học thêm không có ý nghĩa nhiều khi mà ai cũng đi học thêm giống nhau. Về thực chất, nó giống như việc học sinh phải nộp thêm 1 khoản học phí khác, nhưng thay vì nộp cho nhà trường thì nộp trực tiếp cho giáo viên.

GS Vũ Hà Văn (phải) và GS Ngô Bảo Châu là những nhà toán học người Việt hàng đầu thế giới hiện nay dù tuổi đời còn rất trẻ.
GS Vũ Hà Văn (phải) và GS Ngô Bảo Châu là những nhà toán học người Việt hàng đầu thế giới hiện nay dù tuổi đời còn rất trẻ.

Nếu tạo ra được điều kiện cho sự cân bằng đó diễn ra một cách quy củ hơn, thì nó sẽ có lợi cho cả người dạy và người học. Tiền sẽ được phân bố đều hơn. Còn trẻ con đỡ được cái cảnh học thêm ngày đêm và bố mẹ suốt ngày phải chạy vạy đưa đón.
Người Mỹ có một cách học tương đối hữu hiệu để vận hành các trường phổ thông. Để có nguồn kinh phí nuôi 1 ngôi trường, người ta thu thuế của những người sống trên địa bàn trường đóng. Nếu bạn có một ngôi nhà ở thị trấn X thì hằng năm bạn sẽ phải đóng một khoản thuế (khoảng 3%) giá trị của ngôi nhà cho chính quyền địa phương. Khoản này hoàn toàn riêng biệt với thuế thu nhập phải đóng cho chính quyền bang và liên bang. Số tiền thu được chính quyền địa phương (tương đương với một phường hay một xã ở Việt Nam) sẽ dùng cho mọi chi phí trong vùng, trong đó chủ yếu là chi phí giáo dục. Để đảm bảo chất lượng giáo dục, chính quyền địa phương sẽ tìm mọi cách tiêu số tiền này một cách hữu hiệu nhất. Thuê các giáo viên giỏi, hay tu sửa trường lớp. Tiền thuế phải đóng cũng tăng giảm tùy theo năm, theo mức chi phí.
Như vậy, người dân trực tiếp đóng góp cho việc học tập của con em mình, cũng như ở Việt Nam, nhưng không trả lương trực tiếp cho giáo viên như ở Việt Nam (thông qua đi học thêm) mà thông qua chính quyền địa phương. Được cái là cách vận hành của chính quyền địa phương của họ đơn giản và minh bạch, vì đây là cơ quan gần dân nhất. Tất cả các khoản thu – chi hằng năm, thậm chí hằng quý được gửi đến cho từng người dân để xem và cho ý kiến. Nếu công trình nào quá tốn kém, dân cả cùng sẽ đi họp và bỏ phiếu. Cơ quan địa phương làm việc có trách nhiệm, chi tiêu dè xẻn và không có tham nhũng.
Với chính sách thu thuế để đầu tư cho giáo dục như vậy thì một người có nhà trên địa bàn nhưng không có con cái trong độ tuổi học phổ thông vẫn phải đóng góp?
GS Vũ Hà Văn: Đúng vậy. Rất nhiều gia đình khi con cái đã học xong phổ thông, bố mẹ sẽ chuyển đến nơi khác, tới một ngôi nhà nhỏ hơn với mức thuế thấp hơn. Vùng nào có nhà máy, có công ty lớn đóng thì những đơn vị đó phải đóng thuế tương đối nặng. Nhờ thế, người dân trong vùng đó được giảm thuế mà trường học vẫn tốt. Tất nhiên, với mô hình này, sự chênh lệch lớn giữa các thành phố nghèo và những thành phố nghèo là điều không thể tránh khỏi. Ở những vùng mức sống còn thấp, kinh phí của chính phủ đóng vai trò chủ yếu.
Cám ơn giáo sư Vũ Hà Văn.

Xem thêm: Vũ Hà Văn: Nhà Toán học làm rạng danh non sông Việt Nam trên đất Mỹ

GS Vũ Hà Văn sinh ngày 12/6/1970 tại Hà Nội, con của bác sĩ Vũ Ngọc Chúc (tức nhà thơ Vũ Quần Phương) và bà Đào Thị Hường, dược sĩ.

Sinh tại Hà Nội, Vũ Hà Văn học trung học tại trường Chu Văn An và Hà Nội - Amsterdam. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông được cấp học bổng sang học ở Hungary. Lúc đầu, ông học khoa điện tử, nhưng sau một năm rưỡi ông chuyển sang học toán học ở Đại học Eötvös Loránd và đậu cử nhân toán học năm 1994.

Ông đậu bằng tiến sĩ toán học tại Đại học Yale, Hoa Kỳ, dưới sự hướng dẫn của giáo sư László Lovász. Sau thời gian nghiên cứu hậu tiến sĩ tại Viện Nghiên cứu cấp cao (IAS) Princeton và tại Ban Nghiên cứu của Microsoft, từ năm 2001 đến 2005, ông làm việc ở Đại học California tại San Diego, trong chức vụ phụ tá giáo sư, phó giáo sư rồi giáo sư (full professor). Từ mùa thu năm 2005, ông trở thành giáo sư toán học tại Đại học Rutgers[3] và từ năm 2011 là Giáo sư Đại Học Yale (nơi ông bảo vệ luận án tiến sĩ, năm 1998). Ông cũng là giáo sư thỉnh giảng của Đại học Paris 6 năm 2006.
Theo Quý Hiền (Tiền Phong)