Việt Nam đã có đại học đa lĩnh vực đích thực hay chưa?

31/01/2017 07:35
TS.Lê Viết Khuyến
(GDVN) - Các đại học đa lĩnh vực của ta ngay từ lúc thành lập đã có xu hướng tồn tại dưới dạng một “liên hiệp các trường đại học chuyên ngành”.

LTS: Ở nước ta các đại học đa lĩnh vực ra đời từ nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 vừa qua, dựa trên quan điểm chỉ đạo từ Nghị quyết 4 Ban chấp hành Trung ương Khóa 7 (1993) về việc xây dựng các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm. 

Tất cả các đại học này đều được hình thành chủ yếu bằng cách gom và tổ chức lại các cơ sở giáo dục đại học có trên cùng một địa bàn. Đây là một chủ trương đúng giúp chúng ta sớm có được những cơ sở giáo dục đại học mạnh, đa năng. 

Tuy nhiên đã hơn 20 năm qua đi nhưng các đại học của chúng ta được hình thành từ các năm 1993, 1994 vẫn chưa thực sự “mạnh”. 

Có ý kiến cho rằng ở các đại học này tầng trên “đại học” là thừa, gây cản trở đến hoạt động của các “trường đại học thành viên”; thậm chí còn có đề xuất cực đoan đòi giải thể các đại học đa lĩnh vực. 

Hôm nay, trong bài viết này, TS.Lê Viết Khuyến –Trưởng ban hỗ trợ chất lượng giáo dục đại học (Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam) làm sáng tỏ vấn đề này dưới góc độ cấu trúc quản trị của các đại học. 


Ba xu hướng tổ chức các cơ sở giáo dục đại học theo ngành nghề đào tạo

Trong lịch sử giáo dục đại học thế giới, các cơ sở giáo dục đại học được tổ chức hoặc riêng cho từng lĩnh vực ngành nghề đào tạo, hoặc chung cho nhiều lĩnh vực ngành nghề đào tạo. 

Ở trường hợp thứ nhất ta có các trường đại học chuyên ngành, còn trong trường hợp sau – có các đại học đa lĩnh vực.

Thứ nhất, trường đại học chuyên ngành là mô hình trường đại học rất phổ biến ở các quốc gia châu Âu lục địa. 

Lĩnh vực ngành đào tạo ứng với mỗi trường nằm trong một phổ khá rộng, có thể từ rất hẹp (ví dụ: trường Kiến trúc, trường Điều dưỡng, trường Cầu – Đường...), tương đối rộng (ví dụ: trường Nông nghiệp) hoặc khá rộng (ví dụ: trường Tổng hợp). 

Trừ trường Tổng hợp ra, tên gọi tiếng Anh của các trường đại học chuyên ngành thường là College hay Academy / Institute.

Về mặt quản trị, các trường đại học chuyên ngành thường có cấu trúc 2 cấp. Dưới cấp trường (College) là cấp khoa (Deparment) thực hiện 1 số chương trình đào tạo tương ứng với 1 ngành đào tạo (Fild of study). 

Việc tổ chức thêm cấp bộ môn (Division) rất hãn hữu vì các trường thường đào tạo theo ngành rộng ở trình độ đại học.

Việt Nam đã có được đại học đa lĩnh vực đích thực hay chưa? (Ảnh: Báo VTC)
Việt Nam đã có được đại học đa lĩnh vực đích thực hay chưa? (Ảnh: Báo VTC)

Thứ hai, đại học đa lĩnh vực là mô hình trường rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt tại Anh quốc, các quốc gia Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada), Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc,...), Đông Nam Á... Tên gọi tiếng Anh của loại trường này là University. 

Từ điển thuật ngữ giáo dục của Hoa Kỳ định nghĩa: University là một cơ sở giáo dục bao gồm nhiều trường thành viên, trong đó phải có 1 trường khoa học cơ bản (liberal art college), một số chương trình sau đại học và phải có từ 2 hoặc nhiều hơn các trường chuyên ngành (College, Faculty, School) và phải đủ năng lực để có thể cấp văn bằng cho nhiều lĩnh vực đào tạo khác nhau.

Về mặt quản trị, các đại học đa lĩnh vực thường có cấu trúc 3 cấp: cấp đại học (University), cấp trường và tương đương (College, Faculty, School) và cấp khoa (Deparment). 

Cấp trường tương đương với một lĩnh vực đào tạo (ví dụ: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn, kỹ thuật, quản trị kinh doanh, y, nông nghiệp,...), còn cấp khoa tương đương với một hoặc một vài ngành đào tạo gần nhau. 

Việt Nam đã có đại học đa lĩnh vực đích thực hay chưa? ảnh 2

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: Sẽ khai tử những trường đại học không đạt chuẩn

(GDVN) - "Sẽ phải rà soát lại toàn bộ chất lượng các trường đại học, trường nào không đảm bảo sẽ chính thức khai tử, không thể kéo dài tình trạng tiền lâm sàng".

Thường không có cấp bộ môn (Division) do các đại học đa lĩnh vực thường đào tạo diện rộng ở trình độ cử nhân.

Ở một số quốc gia như Hoa Kỳ, Anh... các trường đại học mạnh (chuyên ngành hoặc đa lĩnh vực), thường cùng một đẳng cấp, có thể liên kết lỏng lẻo với nhau để hình thành những Tập đoàn đại học (The University Corporation). 

Ví dụ như: tập đoàn University of Cali. (gồm 9 đại học đa lĩnh vực), Tập đoàn Cali. State University (gồm 23 đại học đa lĩnh vực), Tập đoàn Oxfort U. (gồm 35 trường), Tập đoàn Cambridge U. (gồm 31 trường)...

Tuy nhiên hiểu các tập đoàn đại học này như những đại học đa lĩnh vực có 4 cấp quản lý là không đúng. Tương tự cũng không thể xem các trường thành viên trong các đại học đa lĩnh vực như những cơ sở giáo dục đại học độc lập (Theo Vũ Quang Việt).

Nét nổi trội của các đại học đa lĩnh vực là do bao quát được nhiều lĩnh vực đào tạo khác nhau nên chúng cho phép huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống để giải quyết các nhiệm vụ to lớn về đào tạo và nghiên cứu khoa học mà một trường đại học chuyên ngành không thể đảm đương nổi. 

Đó là, tạo cơ hội cho từng giảng viên được đi sâu vào chuyên môn của mình, cho phép người học được lựa chọn để học với những người thầy giỏi nhất, cho phép nhà trường mở ra các chương trình liên ngành một cách nhanh nhất. 

Chính vì vậy đại học đa lĩnh vực thường được nhiều nước trên thế giới ưu tiên lựa chọn. Tại nhiều nước, đặc biêt ở các nước đang phát triển, có khuynh hướng chuyển đổi các đại học chuyên ngành thành các đại học đa lĩnh vực.

Thứ ba, ở các quốc gia chấp nhận nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây trong đó có Việt Nam, các cơ sở giáo dục đại học thường được tổ chức theo từng lĩnh vực kinh tế, ví dụ như: trường đại học tổng hợp, trường đại học kinh tế, trường đại học sư phạm, trường đại học kỹ thuật công nghiệp,... 

Cách tổ chức như vậy gắn rất chặt với cơ chế bộ chủ quản: mỗi trường đại học luôn thuộc về một bộ chủ quản. Điều này hoàn toàn khác với bản chất tự chủ của các đại học đa lĩnh vực, rất thích hợp với cơ chế tự chủ trong nền kinh tế thị trường.

Về đại thể, các trường đại học được tổ chức theo từng lĩnh vực kinh tế, thực chất cũng là các trường đại học chuyên ngành. 

Do có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu nhân lực theo đơn hàng cụ thể của nhà nước nên các trường loại này thường đào tạo theo các chuyên môn khá sâu, thường gắn với sứ mệnh cụ thể của cơ sở giáo dục đại học.

Ví dụ như trong khi các đại học đa lĩnh vực chỉ đào tạo các chương trình kỹ thuật xây dựng công trình (Civil Engeneering) thì các trường đại học chuyên ngành có thể có các chương trình chuyên sâu như: kỹ thuật xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp, kỹ thuật xây dựng công trình biển, kỹ thuật xây dựng công trình ngầm, kỹ thuật xây dựng cầu - đường bộ, kỹ thuật xây dựng cầu – đường sắt,... 

Vì các chương trình hướng vào việc đào tạo ra những chuyên gia có thể làm việc độc lập khi ra trường nên thời gian đào tạo của các trường đại học chuyên ngành thường phải từ 5 năm trở lên.

Về mặt quản trị, các trường đại học chuyên ngành được tổ chức theo từng lĩnh vực kinh tế thường có cấu trúc 3 cấp. 

Dưới cấp trường (College, Academy/ Institute), là cấp khoa (Facultet, Department), tương ứng với một ngành đào tạo. 

Để hướng tới đào tạo chuyên sâu, ở các trường đại học chuyên ngành kiểu này, dưới cấp khoa còn có thêm cấp Bộ môn (Kafedra, Division) thường tương ứng với một chuyên ngành. 

Đặc điểm này cần phải được quan tâm khi xây dựng các đại học đa lĩnh vực trên cơ sở hợp nhất các trường đại học chuyên ngành, giống như ở Việt Nam trong các thập niên vừa qua.

Thực trạng hình thành các đại học đa lĩnh vực tại Việt Nam

Trước năm 1993 (chí ít là từ sau năm 1975), ở Việt Nam không có các đại học đa lĩnh vực. 

Tất cả các cơ sở giáo dục đại học, để phục vụ cho nhu cầu nhân lực của một nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, đều được xây dựng theo mô hình của Liên Xô cũ, tức là đều là các trường đại học chuyên ngành. 

Cái gọi là “Trường đại học Tổng hợp” trên thực tế cũng chỉ là trường đào tạo về khoa học cơ bản.

Để triển khai Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa 7) nhằm đổi mới hệ thống giáo dục nước ta từng bước theo hướng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Nhà nước chủ trương xây dựng các đại học đa lĩnh vực. 

Việt Nam đã có đại học đa lĩnh vực đích thực hay chưa? ảnh 3

Đột phá hay cát cứ?

(GDVN) - Chính phủ đang tìm cách xóa bỏ “47 cơ quan chủ quản” các cơ sở giáo dục Đại học, vậy có nên để tồn tại, dù mới chỉ là manh nha, một “thành phố chủ quản” mới?

Trên tinh thần đó, trong 2 năm 1993 và 1994, lần lượt 5 đại học đa lĩnh vực là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế và Đại học Đà Nẵng đã được thành lập, dựa trên nguyên tắc gom một số cơ sở giáo dục đại học chuyên ngành có trên cùng 1 địa bàn lại với nhau. 

Hiện tại 5 đại học này đều hoạt động theo các quy chế riêng do Thủ tướng Chính phủ (đối với 2 đại học quốc gia) hoặc do Bộ trưởng Bộ GĐ&ĐT (đối với 3 đại học vùng) ký ban hành.

Như đề xuất ban đầu từ Đề án quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học do Bộ GD&ĐT trình lên Hội đồng Bộ trưởng (tức Chính Phủ) từ năm 1992 (Phương án IV), tất cả các đại học đa lĩnh vực phải được tổ chức như một chỉnh thể thống nhất, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo, với một hệ thống quản trị 3 cấp là: đại học (University), trường thành viên (College) và khoa (Deparment), tức là theo mô hình các University của Hoa Kỳ. 

Để làm được việc đó, cần phải tổ chức lại tất cả các trường đại học chuyên ngành (vốn có cấu trúc kiểu Liên Xô cũ) tham gia vào sự hình thành của đại học đa lĩnh vực.

Tuy nhiên, quá trình triển khai lại không phải như vậy. Vì nhiều lý do khác nhau, cuối cùng ở tất cả các đại học đa lĩnh vực được thành lập, cấu trúc 3 cấp là trường – khoa – bộ môn (kiểu quản trị của Liên Xô cũ) về căn bản vẫn được giữ nguyên ở các trường thành viên. 

Kết quả là các đại học đa lĩnh vực đều có cấu trúc 4 cấp: đại học - trường – khoa – bộ môn. 

Để giữ được vị thế của mình vốn đã từng là một trường đại học độc lập, các trường thành viên khi chuyển ngữ cấu trúc 4 cấp trên qua tiếng Anh thường sử dụng mô hình: University – University – Faculty- Department, gây ra sự hiểu lầm trong các đồng nghiệp nước ngoài cho rằng các đại học đa lĩnh vực ở Việt Nam là các tập đoàn đại học. 

Thực ra các đại học đa lĩnh vực của ta ngay từ lúc thành lập đã có xu hướng tồn tại dưới dạng một “liên hiệp các trường đại học chuyên ngành”.

Khi thành lập các đại học đa lĩnh vực xã hội mong chờ ở những ưu việt mà kiểu trường này sẽ bộc lộ ra như: bộ máy tổ chức gọn nhẹ (không có sự trùng lặp các khoa, bộ môn ở những trường thành viên khác nhau), sinh viên được tự do lựa chọn học các môn học hoặc các chương trình liên ngành ở các trường khác nhau, sinh viên được học với những giảng viên giỏi nhất ở tất cả các môn học, dễ dàng mở ra các chương trình liên ngành (Inter-disciplinary)... 

Tuy nhiên cho tới nay kết quả có được lại không phải như vậy do các trường thành viên vẫn hoạt động gần như độc lập, không phối hợp với nhau, trước hết là về mặt đào tạo, nên đại học không có được sức mạnh tổng hợp.

Về mặt thể chế các quy chế tổ chức và hoạt động của các đại học đa lĩnh vực, đặc biệt ở quy chế cho các đại học vùng ban hành tại Thông tư số 08/2014/TT-BGDĐT ngày 20/3/2014 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT và ở Điều lệ trường đại học, đã gần như khẳng định tư cách hoạt động độc lập của các trường thành viên – điều tối kỵ đối với một đại học đa lĩnh vực ở mô hình phương Tây .
 
Với những quy định như vậy, cấp “đại học” trong các đại học đa lĩnh vực có thể được ví như cấp “bộ chủ quản” trong thể chế hiện nay.

Vì tồn tại đồng thời 2 “bộ chủ quản” nên dĩ nhiên xuất hiện nhiều ý kiến đề xuất nên bỏ bớt đi một “cấp bộ chủ quản”, tức là giải thể các đại học đa lĩnh vực.

Từ những phân tích ở trên có thể thấy 2 nguyên nhân làm cho các đại học đa lĩnh vực của ta hiện nay chưa thể hiện được sức mạnh tổng hợp của mình như những đại học đa lĩnh vực đích thực:

Một là, các đại học đa lĩnh vực chưa phải là một chỉnh thể thống nhất (đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo mà chúng chỉ vận hành dưới dạng của một “tập đoàn đại học” hay chính xác hơn, dưới dạng của một “liên hiệp các trường đại học chuyên ngành”.

Hai là, về mặt pháp lý các trường đại học thành viên đã được nhà nước công nhận có tư cách gần như một trường đại học độc lập làm cho hoạt động của các đại học đa lĩnh vực trở nên rời rạc.

TS.Lê Viết Khuyến