Muốn đạt tỉ lệ người học các ngành STEM đạt 35% mỗi trình độ cần đãi ngộ đủ mạnh

20/06/2025 06:35
Thanh Thúy
Theo dõi trên Google News

GDVN -Đầu ra bậc sau đại học phải gắn với nhu cầu sử dụng và mức đãi ngộ đủ hấp dẫn thì mới có thể thu hút được người theo học thạc sĩ, tiến sĩ khối ngành STEM.

Tháng 5/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã ký Quyết định số 1002/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới năm 2045.

Nguồn nhân lực chất lượng cao thuộc các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM) là chìa khóa để các quốc gia phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, nâng cao năng suất lao động và cạnh tranh quốc gia. Do vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực STEM có vai trò hết sức quan trọng.

Tuy nhiên, hiện nay, đây lại là khối ngành đào tạo chưa thu hút được người học lên các bậc học sau đại học. Do đó, việc đạt được mục tiêu cụ thể đến năm 2030 tỉ lệ người theo học các ngành STEM đạt 35% ở mỗi trình độ đào tạo rất cần có thêm chính sách, đãi ngộ thúc đẩy từ hai phía giữa nhà trường và doanh nghiệp để thu hút học viên theo học.

Khó thu hút người học khối ngành STEM ở trình độ cao nếu thiếu các chính sách đãi ngộ đủ mạnh

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Như Khoa – Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Thái Nguyên chia sẻ, việc tăng quy mô đào tạo các ngành STEM có vai trò rất quan trọng, mang tính quyết định đối với sự phát triển của xã hội, của quốc gia trong thời đại công nghệ 4.0 đang phát triển như vũ bão hiện nay.

Đào tạo các trình độ sau đại học khối ngành STEM cung ứng nguồn nhân lực thiết yếu cho phát triển các lĩnh vực công nghệ, nhất là công nghệ cao phục vụ chuyển đổi cơ cấu, phát triển nền kinh tế tri thức dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Quy mô đào tạo sau đại học thấp và khan hiếm là thực trạng đáng lo ngại đối với định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Như Khoa, quy mô người theo học sau đại học ở các ngành STEM hiện nay còn thấp, có thể kể đến một số nguyên nhân:

Trước hết, ngay từ bậc đại học, học sinh có xu hướng chọn các ngành "hot" bởi nhiều em chưa hiểu rõ tầm quan trọng của khối ngành STEM cũng như đam mê, động lực theo đuổi ngành nghề STEM vì xu hướng nhận thức của xã hội hiện nay cứ ngành nghề nào dễ học, việc làm nhẹ nhàng thì sẽ thu hút đa số người học.

Vì vậy, khi số lượng người học STEM ở bậc đại học còn hạn chế, nguồn học viên ở bậc sau đại học trong lĩnh vực này cũng trở nên khan hiếm.

Bên cạnh đó, việc đầu tư cho nghiên cứu của khối ngành này cần kinh phí lớn nhưng tài chính được cấp hoặc nguồn thu từ học phí còn thấp khiến ít trường đại học mạnh dạn đầu tư cho các phòng thí nghiệm, thực hành đạt chuẩn.

Ngoài ra, chính sách đãi ngộ của các doanh nghiệp, thị trường lao động chưa đủ mạnh để thu hút người học ở các trình độ cao hơn. Người học chưa nhìn thấy rõ giá trị thực tiễn của việc học sau đại học, thị trường lao động trong nước chưa có nhiều vị trí yêu cầu trình độ sau đại học, hoặc chưa có cơ chế đãi ngộ xứng đáng cho nhóm này, đặc biệt trong các lĩnh vực nghiên cứu.

Hầu hết, các bạn trẻ sau khi ra trường khi làm việc tại các doanh nghiệp lại tham gia thực chiến nhiều hơn và được hưởng mức lương, đãi ngộ cao, từ đó phần lớn không có nhu cầu tham gia đào tạo sau đại học.

Bởi lẽ, nếu mức thu nhập của một tiến sĩ chỉ tương đương hoặc không chênh lệch nhiều so với người tốt nghiệp đại học thì rất khó để khuyến khích người học theo đuổi con đường học cao hơn trong lĩnh vực STEM.

Ảnh minh họa. Webstie Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên).
Ảnh minh họa. Webstie Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên).

Đồng quan điểm, Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống, nguyên chủ nhiệm bộ môn Kỹ thuật hàng không của Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, khối ngành STEM đặc biệt bậc sau đại học yêu cầu trình độ chuyên môn cao cũng như sự đầu tư lớn về chất xám để thực hiện các công trình nghiên cứu. Điều này khiến ngành trở nên khá “kén” người theo đuổi.

Sau khi tốt nghiệp, nhiều em ưu tiên tìm việc làm thay vì tiếp tục học lên cao do nhu cầu tài chính cũng như định hướng nghề nghiệp của bản thân. Bên cạnh đó, hiện nay những người có năng lực tốt, có nhiều cơ hội nhận học bổng sẽ lựa chọn du học tại các trường đại học nước ngoài, nhất là ở trình độ tiến sĩ.

Ngoài ra, các doanh nghiệp ở Việt Nam chưa chú trọng vào nghiên cứu và phát triển (R&D), chưa tạo ra động lực đủ mạnh để người học theo đuổi các bậc học sau đại học.

Theo thầy Tống, việc ít người theo học sau đại học khiến nguồn giảng khối ngành STEM có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt giảng viên trình độ cao, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học.

Đồng thời, sự suy giảm lực lượng nghiên cứu cũng kéo theo việc giảm số lượng và chất lượng các công trình khoa học. Các nghiên cứu trong khối ngành STEM đòi hỏi đội ngũ chuyên gia có trình độ cao, nếu không có đủ nhân lực, các phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động hiệu quả.

Đầu ra bậc sau đại học phải gắn với nhu cầu sử dụng và mức đãi ngộ rõ ràng, hấp dẫn

Theo thầy Khoa, để thu hút nhiều học viên theo đuổi khối ngành STEM ở trình độ cao, cần các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện học tập, nghiên cứu và đảm bảo đầu ra hấp dẫn.

Về phía các cơ sở giáo dục đào tạo, cần nâng cao chất lượng đào tạo, cải thiện cơ sở vật chất, điều kiện nghiên cứu, đồng thời tạo ra môi trường học tập hấp dẫn và truyền cảm hứng cho người học.

Khi các cơ sở giáo dục đại học xây dựng được môi trường nghiên cứu chuyên sâu, năng động thì người học sau đại học mới thực sự có điều kiện phát triển khả năng một cách bền vững. Đây chính là nền tảng để thu hút, nuôi dưỡng và giữ chân đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học – công nghệ.

Về phía người học, cần tăng sức hút đối với người học khối ngành STEM, đặc biệt ở bậc sau đại học. Việc này đòi hỏi các cơ sở giáo dục chủ động tạo ra môi trường học tập hấp dẫn, chương trình đào tạo chất lượng và điều kiện nghiên cứu thuận lợi để người học sau đại học sớm tiếp cận, nghiên cứu, tạo ra những sản phẩm có giá trị thực tế cho xã hội và tăng cơ hội việc làm cho người học.

Đặc biệt, đối với đào tạo ở trình độ tiến sĩ, cần có chế độ học bổng, hỗ trợ tài chính phù hợp để nghiên cứu sinh có thể tập trung toàn thời gian cho việc học tập, nghiên cứu học thuật, bảo đảm chất lượng và đồng thời đóng góp cho phát triển nghiên cứu của cơ sở đào tạo.

Vì vậy, muốn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cần có sự đồng hành của hai yếu tố, một là chất lượng đào tạo tốt, hai là chế độ đãi ngộ tương xứng sau khi ra trường. Nếu chỉ đào tạo mà không đảm bảo cơ hội nghề nghiệp và thu nhập phù hợp thì người học dù có đam mê cũng khó đủ kiên nhẫn theo đuổi đến cùng nếu họ cảm thấy nỗ lực học tập không mang lại lợi ích xứng đáng.

Nói cách khác, đầu ra bậc sau đại học phải gắn với nhu cầu sử dụng và mức đãi ngộ rõ ràng, hấp dẫn thì mới có thể thu hút và giữ chân những người thực sự có năng lực và khát vọng phát triển trong lĩnh vực STEM.

Ngoài ra, nhà trường và doanh nghiệp cần bắt tay để đảm bảo nguồn nhân lực STEM chất lượng cao. Doanh nghiệp có thể đặt hàng để người học sau đại học thấy được cơ hội nghề nghiệp và triển vọng phát triển sau khi học lên cao, có định hướng nghề nghiệp rõ ràng và gắn kết chặt chẽ hơn giữa quá trình đào tạo với nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động. Ngược lại, cơ sở giáo dục có trách nhiệm đảm bảo số lượng và chất lượng đầu ra để đạt tiêu chuẩn của doanh nghiệp đã đặt ra.

Như vậy, sinh viên theo học đào tạo sau đại học tại trường vừa được tham gia làm việc với doanh nghiệp, vừa có cơ hội nghiên cứu chuyên sâu tại trường. Khi đó cả doanh nghiệp và nhà trường đều có thể giải quyết bài toán về nhân sự STEM chất lượng cao.

"Chất lượng đào tạo tiến sĩ không chỉ phụ thuộc vào các cơ sở giáo dục mà còn phụ thuộc năng lực, quyết tâm của nghiên cứu sinh, phụ thuộc vào các chính sách hỗ trợ từ xã hội, tiềm năng phát triển, chính sách đãi ngộ. Nên có cơ chế ưu tiên đề tài khoa học, các chương trình dự án lớn đối với các cơ sở có đào tạo sau đại học và chính sách đãi ngộ, trọng dụng những người có trình độ tiến sĩ, với chế độ phụ cấp đặc thù", thầy Khoa chia sẻ.

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế chia sẻ, hiện nay các trường đại học, cơ sở đào tạo cũng ngày càng chú trọng xây dựng các chương trình giảng dạy chuyên sâu về các ngành STEM để đáp ứng nhu cầu học tập của người học cũng như đáp ứng cho thị trường lao động hiện nay.

Thông qua STEM, nhiều ngành mới đã hình thành và phát triển, nhất là các ngành mang tính chất liên ngành, xuyên ngành như: khoa học dữ liệu và trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, blockchain, công nghệ sinh học, tin sinh học… tạo cơ hội việc làm lớn cho người học STEM và thúc đẩy nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong những lĩnh vực này.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, việc đào tạo các ngành STEM ở Việt Nam cũng đang gặp phải một số khó khăn, thách thức, số lượng học viên theo học thạc sĩ và tiến sĩ còn hạn chế. Trong khi đó, đây lại là lực lượng quan trọng trong hoạt động nghiên cứu khoa học, tạo ra những công trình, sản phẩm khoa học phục vụ phát triển đất nước.

Một trong những khó khăn đó là về cơ sở vật chất, thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ cho dạy học các ngành STEM còn chưa đáp ứng đủ điều kiện, dẫn đến việc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Ngoài ra, việc thiếu thông tin về cơ hội phát triển khiến người học gặp khó khăn trong việc định hướng nghề nghiệp và khả năng thăng tiến khi đầu tư công sức, chất xám học lên cao.

Vì vậy, việc tăng tỉ lệ người theo học các ngành STEM đạt 35% ở mỗi trình độ cần có điều kiện, lộ trình và có những giải pháp mang tính đồng bộ. Đồng thời, cần có sự đầu tư đồng bộ từ chính sách, cơ sở hạ tầng, và đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm đảm bảo lực lượng lao động không chỉ đủ về số lượng mà còn mạnh về chất lượng.

Cùng với đó, cần đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, tài liệu học tập đáp ứng được yêu cầu của giảng dạy – học tập bên cạnh áp dụng công nghệ số vào quá trình dạy học như sử dụng các công cụ như thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) và mô phỏng để tăng cường trải nghiệm học tập.

471635068-965865542094515-1305564522279568675-n.jpg
Ảnh minh họa. Website Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.

Cùng bàn về vấn đề này, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống, khi tăng tỷ trọng đào tạo các ngành STEM đặc biệt ở bậc sau đại học, Việt Nam sẽ có thêm nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ tự động hóa và khoa học vật liệu.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, cần có những những giải pháp để thu hút người học theo học các ngành STEM, đặc biệt là ở bậc học sau đại học. Từ đó, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao ở lĩnh vực nghiên cứu và phát triển.

Trước hết, ngay từ chương trình phổ thông đến đại học, cần cho học sinh thấy rõ được tầm quan trọng và tiềm năng phát triển của ngành STEM. Đồng thời, các cơ sở giáo dục đại học cần chú trọng việc thu hút sinh viên theo học các ngành này, từ đó tạo cơ sở để thu hút và phát triển người học ở bậc đào tạo sau đại học

Bên cạnh đó, cần tăng cường kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp ở các hoạt động đào tạo sau đại học nhằm đảm bảo cơ hội việc làm khi người học bỏ công sức, chất xám khi học lên cao, từ đó hình thành một lộ trình phát triển dài hạn.

Cùng với đó, thúc đẩy hợp tác giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm theo nhu cầu doanh nghiệp, đẩy mạnh khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, muốn thúc đẩy mạnh hơn mối quan hệ hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, các đề tài nghiên cứu cần thật sự sát với thực tiễn, giúp giải quyết được vấn đề của doanh nghiệp.

Đồng thời, cần có các học bổng hấp dẫn cho sinh viên xuất sắc, đặc biệt là bậc sau đại học, tương tự như các chương trình học bổng chính phủ của các nước phát triển. Ngoài ra, việc tăng mức lương và phụ cấp nghiên cứu cho học viên cao học và nghiên cứu sinh cũng là giải pháp quan trọng, giúp người học yên tâm học tập và nghiên cứu.

Thanh Thúy