Về bảo đảm nguồn nhân lực thực hiện theo Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ: Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao khẩn trương xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực, nhân tài khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong và ngoài nước, nhất là nhân lực chất lượng cao trong các ngành công nghệ mũi nhọn (trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, vật liệu mới...); có chính sách đãi ngộ đặc biệt... để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc. Hoàn thành trong tháng 8/2025.
Chính sách đãi ngộ đặc biệt là điều kiện tiên quyết để thu hút nhà khoa học
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu - Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực đã có một số chia sẻ xoay quanh nội dung này, đi từ thực tiễn của nhà trường.

Về chế độ tiền lương, ngoài việc chi trả lương theo quy định của Nhà nước, Trường Đại học Điện lực còn áp dụng “hệ số thu hút” đối với giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ - nguồn nhân lực chất lượng cao là 7,0. Theo đó, tùy theo mức độ đáp ứng các tiêu chí về chuyên môn, nghiên cứu khoa học..., hệ số thu hút này dao động từ 7 đến gần 17 triệu đồng/tháng.
“Đây là mức đãi ngộ cạnh tranh trong khối trường đại học công lập, thể hiện sự chủ động, linh hoạt của Trường Đại học Điện lực trong thực hiện cơ chế tự chủ, đặc biệt trong thu hút và giữ chân nhân lực trình độ cao.
Tuy nhiên, với cơ chế tự chủ, nguồn lực tài chính của nhà trường vẫn còn hạn chế, khó cạnh tranh được với các tổ chức quốc tế hoặc doanh nghiệp tư nhân về mức lương và phúc lợi.
Chúng tôi kỳ vọng, trong thời gian tới, sẽ có thêm cơ chế đột phá từ Chính phủ để các trường đại học, trong đó có Trường Đại học Điện lực, có thể chủ động hơn trong thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao, góp phần thực hiện hiệu quả các mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW” - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu chia sẻ.
Cũng theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu: “Việc có chính sách đãi ngộ đặc biệt là điều kiện tiên quyết để thu hút các chuyên gia đầu ngành một cách thực chất và bền vững. Nếu vẫn giữ tư duy “bình quân” trong đãi ngộ, chúng ta sẽ khó có thể cạnh tranh được với các quốc gia khác, kể cả trong khu vực”.
Theo đó, vị Hiệu trưởng phân tích, với Trường Đại học Điện lực, sự hiện diện của các chuyên gia đầu ngành sẽ trực tiếp nâng cao chất lượng giảng dạy, cập nhật kiến thức mới nhất và định hướng cho sinh viên theo các xu hướng công nghệ tiên tiến. Đây cũng sẽ là lực lượng nòng cốt trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tiến tới sẽ thành những chuyên gia đầu ngành trong tương lai nếu như Việt Nam có chiến lược đào tạo phù hợp ngay từ bây giờ.
Đồng thời, đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm còn có khả năng dẫn dắt các nhóm nghiên cứu triển khai các dự án lớn, giúp nhà trường đạt được nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, có tính ứng dụng cao. Việc thu hút nhân tài cũng sẽ nâng tầm uy tín và vị thế của nhà trường, tạo sức hút với sinh viên giỏi, từ đó tạo ra một vòng tuần hoàn tích cực giữa chất lượng đội ngũ, chất lượng đào tạo và thành tựu nghiên cứu.
“Ở tầm quốc gia, nếu có chính sách đột phá, Việt Nam hoàn toàn có thể thu hút được đội ngũ chuyên gia đầu ngành đang mong muốn được cống hiến trong một môi trường vừa được đãi ngộ xứng đáng, vừa có ảnh hưởng thực chất.
Tôi tin rằng, việc thu hút các chuyên gia về lĩnh vực AI, bán dẫn, vật liệu mới sẽ thúc đẩy phát triển các ngành công nghệ mũi nhọn, tạo ra sản phẩm, giải pháp công nghệ mang tính đột phá; Việt Nam sẽ tự chủ hơn trong phát triển công nghệ, giảm phụ thuộc vào nước ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời, tạo ra môi trường sôi động, khuyến khích tư duy đổi mới, sáng tạo, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và xây dựng đội ngũ kế cận vững mạnh cho tương lai” - thầy Châu bày tỏ.
Về nội dung này, Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng cũng cho rằng, việc thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu trong các ngành công nghệ mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, vật liệu mới về nước làm việc được kỳ vọng mang lại những kết quả tích cực to lớn cho sự phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số của Việt Nam. Cụ thể, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển; chuyển giao công nghệ và tri thức; đào tạo và phát triển nhân lực; đồng thời, thu hút đầu tư và hợp tác quốc tế.
Mức lương vượt khung cần được quy định tối thiểu bao nhiêu lần?
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu cho rằng, để thu hút các chuyên gia đầu ngành, mức lương vượt khung cần được quy định ở mức tối thiểu từ 5-7 lần lương cơ sở hiện nay, tùy theo lĩnh vực, kinh nghiệm và mức độ đóng góp của chuyên gia.
“Với chuyên gia quốc tế, cần có cơ chế đặc thù cho phép chi trả bằng ngoại tệ. Hiện nay, lương cơ sở tại Việt Nam là 2.340.000 đồng/tháng (tương đương 93,6 USD), trong khi lương của một chuyên gia AI hàng đầu tại Mỹ có thể lên tới 200.000-500.000 USD/năm. Do đó, mức đãi ngộ tại Việt Nam cần tiệm cận từ 100.000-200.000 USD/năm (tương đương 2,5-5 tỷ đồng/năm) mới đủ sức cạnh tranh.
Về nhà ở, nên có chính sách hỗ trợ chuyên gia được thuê nhà ở cao cấp hoặc sử dụng nhà công vụ trong giai đoạn đầu, ưu tiên ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Đối với gia đình chuyên gia, cần hỗ trợ thủ tục visa dài hạn, giới thiệu việc làm phù hợp cho người thân đi cùng, và tạo điều kiện cho con em họ được học tại các trường quốc tế hoặc trường công top trong nước, thông qua cơ chế học bổng hoặc miễn giảm học phí.
Các chính sách này cần được quy định rõ trong các văn bản dưới luật với các tiêu chí cụ thể về đối tượng thụ hưởng, thời gian áp dụng. Cần có cơ chế đặc thù riêng cho phép các chính sách đãi ngộ này được áp dụng một cách linh hoạt, không bị ràng buộc bởi các quy định hành chính thông thường trong giai đoạn đầu.
Trong giai đoạn đầu, Nhà nước nên đóng vai trò chủ lực, thông qua ngân sách trung ương, triển khai cơ chế “đặt hàng chuyên gia”, tài trợ 100% chi phí lương, nhà ở và hỗ trợ liên quan cho ít nhất 100 chuyên gia đầu ngành từ nay đến hết năm 2030. Sau giai đoạn này, tỷ lệ hỗ trợ có thể giảm dần khi các trường đại học và doanh nghiệp dần chủ động về tài chính. Đồng thời, cần thúc đẩy mô hình hợp tác ba bên: Nhà nước - trường đại học - doanh nghiệp để cùng chia sẻ chi phí và trách nhiệm.
Song song đó, Nhà nước cần đầu tư hạ tầng đồng bộ - đặc biệt là các trung tâm nghiên cứu, khu công nghệ cao, nhằm tạo môi trường làm việc hiện đại, hấp dẫn, đủ sức giữ chân các chuyên gia và nhà khoa học trong dài hạn.
Còn Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh lại cho rằng, cần quy định mức lương vượt khung tối thiểu cao hơn nữa.
“Đối với mức lương vượt khung, cần tham khảo mức lương của những vị trí tương đương tại các quốc gia khác, theo tôi, nên quy định mức lương ít nhất gấp 10-15 lần so với mức lương cơ sở hiện hành. Đây là mức lương cần thiết để cạnh tranh với thu nhập mà các chuyên gia có thể nhận được ở các quốc gia phát triển, đồng thời phản ánh đúng giá trị và đóng góp của họ cho đất nước.
Ngoài ra, về chế độ về nhà ở, Nhà nước có chính sách cung cấp nhà ở công vụ hoặc hỗ trợ kinh phí thuê nhà trong 2-3 năm đầu để các chuyên gia ổn định cuộc sống. Sau đó, có thể triển khai chính sách cho vay ưu đãi mua nhà dành cho những người cam kết làm việc lâu dài tại Việt Nam.
Trong giai đoạn đầu, Nhà nước cần hỗ trợ một phần kinh phí cho các chính sách này. Đồng thời, cần khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu tham gia đóng góp thông qua mô hình hợp tác công-tư, nhằm giảm gánh nặng ngân sách và tạo cơ chế bền vững” - nữ đại biểu nhấn mạnh.

Những rào cản hiện nay
Nhìn từ thực tế, Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cho rằng, hiện nay vẫn còn nhiều rào cản khiến các nhà khoa học ở nước ngoài còn e ngại khi trở về Việt Nam làm việc lâu dài.
Về mức lương và phúc lợi: Ngay cả khi có cơ chế vượt khung, thu nhập của chuyên gia tại Việt Nam vẫn khó cạnh tranh với các quốc gia phát triển. Các chế độ bảo hiểm, hưu trí, chăm sóc y tế, hỗ trợ cho gia đình đi cùng… hiện chưa đủ hấp dẫn so với một số quốc gia khác như Nhật Bản, hoặc Singapore.
Về môi trường nghiên cứu: Cơ sở vật chất và phòng thí nghiệm tại nhiều trường đại học, viện nghiên cứu chưa được đầu tư đồng bộ, thiếu trang thiết bị hiện đại và nguồn kinh phí để triển khai các dự án lớn, mang tính đột phá.
Về rào cản hành chính và thể chế: Các thủ tục cấp phép nghiên cứu, cấp visa, nhập khẩu thiết bị nghiên cứu, phân bổ kinh phí… còn phức tạp, thiếu minh bạch, rườm rà, gây mất thời gian. Chính sách ưu đãi cũng chưa thực sự đồng bộ, nhất là trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Văn hóa làm việc cũng là một yếu tố: Một số nhà khoa học có thể cảm thấy khó hòa nhập với môi trường làm việc thiếu minh bạch, còn quan liêu, hoặc có sự cạnh tranh thiếu lành mạnh trong môi trường làm việc tại Việt Nam.
Cuối cùng là cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội: Các vấn đề về môi trường, giao thông, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục cho con em… vẫn còn khoảng cách đáng kể so với kỳ vọng của các chuyên gia từng làm việc tại các nước phát triển. Điều này ảnh hưởng lớn đến quyết định gắn bó lâu dài.
Gắn trách nhiệm của trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong sử dụng đội ngũ
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng yêu cầu Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng Đề án phát triển, trọng dụng nhân tài, đặc biệt là chuyên gia đầu ngành phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; triển khai Chiến lược thu hút nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn năm 2050. Hoàn thành trong tháng 9/2025.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu, để Đề án phát triển và trọng dụng nhân tài thực sự khả thi, cần bắt đầu từ việc xác định đúng đối tượng. Không thể có một chính sách chung cho tất cả, mà cần phân nhóm rõ ràng: chuyên gia là người nước ngoài, chuyên gia trong nước hay Việt kiều; đồng thời chia theo lĩnh vực và mức độ chuyên sâu. Việc ưu tiên nên tập trung vào các lĩnh vực then chốt mà Việt Nam đang cần bứt phá như AI, bán dẫn, vật liệu mới, năng lượng tái tạo...
Thứ hai, chính sách đãi ngộ không chỉ dừng ở mức thu nhập. Để chuyên gia đầu ngành yên tâm làm việc và gắn bó, chúng ta cần một gói điều kiện toàn diện hơn: nhà ở, môi trường làm việc chuyên nghiệp, hỗ trợ con em học tập, tạo điều kiện để cả gia đình họ ổn định. Quan trọng hơn, những gì họ đóng góp phải được ghi nhận thực chất, không hình thức.
Thứ ba, nên có cơ chế tuyển dụng linh hoạt, không cứng nhắc theo quy định, mà cho phép tuyển chọn theo năng lực, hiệu quả công việc, thậm chí là mời gọi theo hình thức “đặt hàng”.
Một điểm cũng rất quan trọng là hạ tầng nghiên cứu. Nếu phòng lab vẫn cũ kỹ, thiết bị lạc hậu, tài trợ nhỏ giọt thì không thể mong các nhà khoa học tạo ra sản phẩm mang tính đột phá. Cần đầu tư đồng bộ, tập trung, không dàn trải.
Ngoài ra, thủ tục hành chính, từ visa, cấp phép, đến nhập khẩu thiết bị … hiện vẫn còn rườm rà. Muốn mời được chuyên gia giỏi, phải thay đổi tư duy - “phục vụ” thay vì “quản lý”. Những vướng mắc nhỏ về thủ tục đôi khi lại là lý do lớn khiến chuyên gia nản lòng.
“Cuối cùng, theo tôi, Đề án cũng nên gắn trách nhiệm với các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong việc sử dụng hiệu quả đội ngũ chuyên gia. Đây không chỉ là bài toán đãi ngộ, mà còn là cách chúng ta sử dụng, trân trọng và phát huy trí tuệ thực sự. Nếu làm tốt, đến năm 2030, Việt Nam hoàn toàn có thể hình thành một hệ sinh thái nhân tài đủ sức cạnh tranh với khu vực” - thầy Châu nhấn mạnh.
Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh cũng bổ sung thêm: “Bên cạnh những điểm trên, cần xây dựng tiêu chí đánh giá nhân tài, xây dựng hệ thống tiêu chí minh bạch để công nhận chuyên gia đầu ngành, dựa trên thành tựu nghiên cứu, đóng góp khoa học và kinh nghiệm quốc tế.
Ngoài ra, cần có chính sách đãi ngộ và khen thưởng phù hợp. Ngoài lương cạnh tranh, cần có giải thưởng khoa học công nghệ, tài trợ nghiên cứu và cơ hội tham gia các dự án quốc tế.
Hỗ trợ phát triển nghề nghiệp, cung cấp các chương trình đào tạo nâng cao, hội nghị quốc tế để chuyên gia cập nhật kiến thức và mở rộng mạng lưới hợp tác. Thiết lập mạng lưới kết nối giữa các chuyên gia trong và ngoài nước để thúc đẩy trao đổi tri thức.
Đồng thời, Đề án cần có cơ chế đảm bảo phát triển nghề nghiệp lâu dài, như các dự án nghiên cứu tầm cỡ và môi trường làm việc thân thiện. Đặc biệt, Đề án cần sự phối hợp giữa Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính để đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả.
Những nội dung này sẽ giúp Đề án không chỉ thu hút mà còn trọng dụng hiệu quả nhân tài, phục vụ chiến lược quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2050”.
Phát huy những “lợi thế khác biệt”, chỉ Việt Nam mới có
Để chính sách thu hút nhân tài thực sự hiệu quả và bền vững, bên cạnh chế độ đãi ngộ, Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cho rằng, Việt Nam cần phát huy những “lợi thế khác biệt”, những điểm mà chỉ Việt Nam mới có, hoặc có thể làm tốt hơn nếu biết khai thác đúng.
Vị Hiệu trưởng cũng chỉ ra một số lợi thế “mềm” nhưng rất quan trọng: “Một là, vai trò và tầm ảnh hưởng. Khi chúng ta trao cho chuyên gia vai trò thực chất và họ được coi như đối tác chiến lược thì rất hiệu quả.
Hai là, yếu tố cảm xúc. Với nhiều trí thức Việt kiều, trở về không chỉ là công việc, mà là cơ hội để đóng góp cho quê hương. Chỉ cần chính sách đủ cởi mở và tôn trọng, thì đó đã là một “điểm cộng” rất lớn.
Ba là, cơ hội tiên phong. Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ trong các lĩnh vực như năng lượng sạch, AI, công nghệ số… Những chuyên gia giỏi không chỉ muốn làm việc, họ muốn dẫn đầu. Môi trường đang phát triển như Việt Nam, nếu linh hoạt trong cơ chế, sẽ là mảnh đất rất tiềm năng.
Và không thể không nhắc đến lợi thế về môi trường xã hội và văn hóa. Với chuyên gia nước ngoài, Việt Nam hấp dẫn vì văn hóa giàu bản sắc, ổn định về chính trị, chi phí sống hợp lý, con người thân thiện. Với chuyên gia Việt kiều, còn có gia đình, quê hương, bạn bè. Đây là những yếu tố “mềm” nhưng có giá trị bền vững.
Cuối cùng, tôi cho rằng, cần có những chính sách linh hoạt, cá nhân hóa, chứ không thể áp dụng đại trà. Nếu biết thiết kế một chiến lược tổng thể, kết hợp đãi ngộ và “đặt chuyên gia vào đúng vị trí mà họ thấy mình có giá trị nhất”, thì Việt Nam không chỉ thu hút, mà còn là nơi để chuyên gia hàng đầu đặt sự nghiệp và niềm tin lâu dài”.

Ngoài ra, để các chính sách thu hút nhân tài đạt hiệu quả và nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trong các ngành công nghệ mũi nhọn, Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh đề xuất thêm một số giải pháp: “Xây dựng môi trường nghiên cứu sáng tạo, đầu tư vào trung tâm nghiên cứu, khu công nghệ cao và phòng thí nghiệm hiện đại để chuyên gia phát huy năng lực. Đồng thời, khuyến khích hợp tác giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp nhằm chuyển giao công nghệ.
Tham gia mạng lưới khoa học toàn cầu, thiết lập chương trình hợp tác nghiên cứu với các nước tiên tiến để chuyên gia tiếp cận xu hướng công nghệ mới. Đẩy mạnh giáo dục STEM từ bậc phổ thông qua các chương trình đào tạo, cuộc thi khoa học để khơi dậy đam mê và phát hiện tài năng trẻ.
Đào tạo gắn với thực tiễn, liên kết giữa đại học và doanh nghiệp để chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường, với sự tham gia của doanh nghiệp vào giảng dạy và thực tập. Khuyến khích đổi mới, hỗ trợ start-up công nghệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ và thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu.
Tôn vinh tri thức, xây dựng văn hóa xã hội tôn trọng nhà khoa học, qua đó khuyến khích thế hệ trẻ theo đuổi lĩnh vực công nghệ”.
“Để thành công, các chính sách cần toàn diện, đồng bộ và được thực thi quyết liệt với sự tham gia của toàn xã hội. Đây là nền tảng để Việt Nam bắt kịp xu hướng phát triển toàn cầu” - nữ đại biểu nhấn mạnh.