Vừa qua Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có loạt bài ghi nhận phán ánh của nhà đầu tư, lãnh đạo trường tư trăn trở trong việc thực hiện tuyển sinh vào 10 tại nhiều địa phương như Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng khiến trường tư gặp khó trong tuyển sinh.
Xem thêm: Bài 1: Hà Nội: Tỷ lệ vào 10 công lập tăng, tuyển hơn chỉ tiêu, còn 'đất' nào cho trường tư?
Bài 2: Hà Nội: Chật vật tuyển sinh, nhà đầu tư chỉ rõ nhiều bất cập khiến trường tư quá khó
Bài 3: Hưởng ứng xã hội hóa, đầu tư 40 tỷ, tuyển được 20 HS vào 10, nhà đầu tư "khóc ròng"
Bài 4: Hải Phòng: Điểm chuẩn vào 10 công lập hạ tới 3 lần, trường tư khó bề xoay xở
Cùng với đó, hiện nay, vẫn còn tồn tại cơ chế "xin - cho" trong việc phê duyệt chỉ tiêu tuyển sinh đầu cấp từ Sở Giáo dục và Đào tạo, chính quyền xã/phường (trước đây là quận/huyện) đối với các trường phổ thông tư thục. Thực tế này đang tạo ra nhiều rào cản cho sự phát triển, cạnh tranh và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường tư thục – một lực lượng đóng vai trò quan trọng trong xã hội hóa giáo dục.
Chính vì vậy, nhiều lãnh đạo cơ sở giáo dục phổ thông tư thục đề xuất xóa bỏ cơ chế "xin - cho" trong cấp chỉ tiêu đầu cấp với giáo dục tư thục.
Trường tư thục vẫn phải trình cơ quan quản lý để được giao chỉ tiêu tuyển sinh đầu cấp
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Giáp Văn Dương – Chủ tịch Hội đồng Giáo dục Trường Tiểu học Times School (Hà Nội) cho biết, hiện các trường phổ thông tư thục hàng năm vẫn phải trình lên cơ quan quản lý để được giao chỉ tiêu tuyển sinh. Sau đó sẽ thực hiện tuyển sinh theo số chỉ tiêu được cơ quan quản lý nhà nước giao.
Mặc dù điều này tuy đúng về trình tự, nhưng thường lệch nhịp vận hành của khối giáo dục phổ thông. Lý do là các gia đình lựa học trường tư thục thường quan tâm đến chuyện chọn trường cho con từ rất sớm, phổ biến là từ tháng 1 hàng năm. Trong khi chỉ tiêu tuyển sinh thường phải đến tháng 4 (bậc trung học phổ thông), tháng 5, tháng 6 với tiểu học, trung học cơ sở. Do đó khiến các trường phổ thông tư thục gặp nhiều khó khăn, bị động trong việc truyền thông, tổ chức tuyển sinh và xây dựng kế hoạch giảng dạy cho năm học mới.
Với các trường tư thục, áp lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển là rất lớn, bởi họ không chỉ phải cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh tranh với các trường công lập, vốn nhận được nhiều chính sách ưu đãi, và cạnh tranh với cả các trường có yếu tố quốc tế.
Vậy nên, việc chậm được cấp chỉ tiêu tuyển sinh khiến các trường tư đánh mất cơ hội tiếp cận học sinh sớm, hoặc đẩy các trường tư vào vùng xám tuyển sinh thông qua các chương trình tư vấn phụ huynh, dẫn đến giảm hiệu quả vận hành và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của nhà trường.

Trong khi đó, nếu nhìn sang khu vực đại học, chúng ta sẽ thấy, các trường đại học được tự chủ tuyển sinh toàn diện. Thường thì ngay từ tháng 1, nhiều trường đại học đã công bố phương án tuyển sinh và tổ chức triển khai các hoạt động tuyển sinh theo định hướng của trường mình.
Chính vì vậy, giải pháp được thầy Dương đưa ra là chuyển từ cơ chế “xin – cho” sang cơ chế hậu kiểm. Tức là, các trường phổ thông tư thục sẽ được quyền tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh dựa trên điều kiện thực tế: số lượng và chất lượng giáo viên, cơ sở vật chất, phòng học, sĩ số lớp… và được công bố chỉ tiêu tuyển sinh từ sớm. Sau khi hoàn tất tuyển sinh và trước khi năm học bắt đầu, cơ quan quản lý có thể thực hiện hậu kiểm như đến kiểm tra thực tế xem cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, chương trình có đáp ứng với số lượng học sinh đã tuyển nếu thấy cần thiết.
Nếu trong quá trình kiểm tra, phát hiện nhà trường vi phạm, vượt quá khả năng đáp ứng, không đảm bảo chất lượng dạy và học, lúc đó mới xử lý theo quy định.
Điều này tạo điều kiện để các trường chủ động trong kế hoạch tuyển sinh, nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục, đồng thời vẫn giữ được vai trò giám sát, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước. Cách làm này cũng phù hợp với tinh thần cải cách hành chính, chuyển từ mô hình hành chính quản lý sang mô hình hành chính phục vụ.
Đây là giải pháp rất phù hợp với thực tế của các trường phổ thông tư thục - những thực thể giáo dục được vận hành theo cơ chế gần giống một doanh nghiệp.
Trong bối cảnh các trường tư thục còn chịu nhiều thiệt thòi về chính sách khi so sánh với trường công thì việc tạo ra các cơ chế tự chủ cho trường tư thục, đặc biệt là tự chủ về tuyển sinh và tự chủ về chương trình là rất quan trọng.
Bởi, đối với các trường phổ thông tư thục, khi đầu tư vào giáo dục, họ phải tính toán đến hiệu quả, đến khả năng tồn tại và phát triển. Và với họ, chất lượng là yếu tố sống còn. Phụ huynh và học sinh sẽ là người đánh giá trung thực nhất, họ có thể đến và cũng có thể rời đi nếu trường không đáp ứng được kỳ vọng. Nếu các trường tư thục không đảm bảo về chất lượng về cơ sở vật chất, chương trình đào tạo và đội ngũ giáo viên, học sinh sẽ rời đi. Vì thế, chính phụ huynh và học sinh là những người giám sát chặt chẽ nhất về chất lượng giáo dục và vận hành của các trường tư thục, chứ không phải là các quy trình quản lý hành chính về giáo dục.
“Khi bàn về việc cấp chỉ tiêu tuyển sinh hay quản lý trường học nói chung thì chúng ta phải xem xét để cân bằng cả hai yếu tố quản lý và phát triển. Quản lý phải phục vụ cho phát triển. Nếu quản lý mà làm cản trở sự phát triển thì cần điều chỉnh”, thầy Dương nhấn mạnh.
Việc áp dụng cơ chế hậu kiểm trong công tác tuyển sinh đối với các trường phổ thông tư thục là hoàn toàn khả thi và không khó để thực hiện, vì có thể đối chiếu với mô hình tự chủ của đại học. Hiện nay, các trường đại học được trao quyền tự chủ lớn hơn các trường phổ thông rất nhiều, vì thế mà có nhiều đất để phát triển hơn các trường phổ thông ở khu vực ngoài công lập.
Cụ thể, Điều 32 của Luật số 34/2018/QH14 – Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học đã quy định rõ về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học. Theo đó: Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học; Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật.
Cũng theo thầy Dương, bằng cách chuyển cơ chế xin - cho sang cơ chế hậu kiểm đối với công tác tuyển sinh, các trường tư thục phổ thông sẽ được quyền chủ động hơn trong việc tuyển sinh, từ đó thúc đẩy sự phát triển của khối giáo dục tư thục ngoài công lập.
Thực tế cho thấy, số lượng học sinh học tại các trường phổ thông tư thục vẫn còn rất thấp, chỉ đạt 6,8 % tổng số học sinh của cả nước (năm 2021) [1]. Đây là con số rất thấp so với tiềm năng của khối giáo dục tư thục phổ thông và so với cả nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia có nền giáo dục phát triển.
Vì vậy, việc đẩy mạnh vai trò của hệ thống giáo dục tư thục, tạo điều kiện để các trường phổ thông tư thục phát triển chính là góp phần xã hội hóa giáo dục một cách thực chất, giảm tải cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho học sinh và gia đình.
Do đó, nếu có thể bổ sung nội dung tự chủ chỉ tiêu tuyển sinh cho trường phổ thông tư thục vào “Điều 60. Nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường trong Luật Giáo dục” thì đây sẽ là bước tiến quan trọng, phù hợp với định hướng cải cách hành chính hiện nay, từ một nền hành chính quản lý sang hành chính phục vụ. Đồng thời, việc tăng tự chủ cho các trường tư thục phổ thông, đặc biệt là tự chủ trong chỉ tiêu tuyển sinh và tự chủ về chương trình giáo dục sẽ tạo ra hành lang pháp lý để các trường tư được phát triển đúng với tiềm năng, trách nhiệm và vai trò của mình trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Tuyển sinh là yếu tố quyết định sự sống còn của khối trường tư thục
Cùng bàn về vấn đề trên, cô Nguyễn Thị Xuân Thân – Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Sunshine Maple Bear Canada (Hà Nội) cho rằng, việc giao quyền tự chủ trong chỉ tiêu tuyển sinh cho các trường tư thục là hợp lý và cần thiết.
Theo cô Thân, các trường tư thục đang hoàn toàn tự chủ về tài chính, hoạt động bằng nguồn vốn đầu tư cá nhân, tổ chức nên tự chịu trách nhiệm về chi phí xây dựng, vận hành, trả lương giáo viên… Vì vậy, tuyển sinh là yếu tố sống còn, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của nhà trường.
Hơn nữa, không phải trường tư nào cũng có thể tuyển được nhiều học sinh; chỉ một số ít trường có chất lượng cao mới thu hút được phụ huynh. Do đó, việc tự chủ trong chỉ tiêu tuyển sinh sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các trường tư thục có chất lượng tiếp tục phát triển.

Cô Thân cũng cho rằng, nên đưa quy định về quyền tự chủ chỉ tiêu tuyển sinh của trường tư vào Điều 60 – Nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường trong Luật Giáo dục. Bởi lẽ, bản chất của các trường tư là tự đầu tư, tự chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo và nguồn thu. Để tồn tại và phát triển, các trường phải đảm bảo chất lượng dạy học, đầu ra rõ ràng, có định hướng giáo dục phù hợp, thậm chí phải đầu tư rất lớn về cơ sở vật chất, mua bản quyền chương trình, thuê chuyên gia quốc tế…
Học sinh, phụ huynh ngày nay có nhiều lựa chọn, nếu chất lượng giáo dục không đáp ứng kỳ vọng, họ sẵn sàng rút con ra và chuyển trường chỉ trong “một nốt nhạc”. Vì thế, các trường tư buộc phải không ngừng nâng cao chất lượng để giữ chân người học.
Chính vì vậy, nếu không có quyền chủ động trong tuyển sinh, chỉ tiêu tuyển sinh vẫn phải chờ duyệt trong khi vẫn phải đầu tư lớn và chịu áp lực cạnh tranh là bất hợp lý.
Cô Thân cũng nhấn mạnh về việc giáo dục công và tư cần được đối xử bình đẳng. Theo cô Thân, Nhà nước nên quan tâm nhiều hơn đến khu vực trường tư. Bởi trên thực tế, các trường phổ thông tư thục hiện nay không những phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ nhau mà còn phải cạnh tranh với cả các trường công lập.
Tóm lại, việc giao quyền tự chủ chỉ tiêu tuyển sinh cho các trường tư thục sẽ tạo điều kiện để khối trường này phát triển thuận lợi hơn, góp phần thúc đẩy quá trình xã hội hóa giáo dục một cách bền vững và hiệu quả.
Đồng tình với quan điểm trên, cô Đỗ Khánh Phượng – Phó Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân lập Hermann Gmeiner Hà Nội, các trường tư thục hiện vẫn phải thực hiện quy trình xin duyệt chỉ tiêu đầu cấp từ Sở Giáo dục và Đào tạo hoặc chính quyền địa phương (xã, phường). Chỉ sau khi được phê duyệt, trường mới được phép tổ chức tuyển sinh và phải đảm bảo đúng số lượng đã được cấp phép. Nếu vượt chỉ tiêu, các trường có thể bị xử phạt hoặc bị từ chối duyệt chỉ tiêu trong những năm tiếp theo.

Cô Phượng cho rằng, nếu được tự chủ về chỉ tiêu tuyển sinh, các trường phổ thông tư thục sẽ có hai lợi ích lớn. Thứ nhất, nhà trường có thể quyết định số lượng tuyển sinh phù hợp với năng lực về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và khả năng cung cấp dịch vụ giáo dục. Thứ hai, các trường có thể chủ động ngay từ đầu trong việc hạch toán tài chính – một trong những thách thức lớn nhất hiện nay đối với khối tư thục do họ không nhận được đầu tư hay hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước và phải hoàn toàn tự cân đối thu - chi.