LTS: Nhân kỉ niệm 160 năm sự kiện thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên đánh chiếm Đà Nẵng (1858-2018), Đại tá Đặng Việt Thủy gửi đến độc giả bài viết chia sẻ.
Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.
Cách đây tròn 160 năm, ngày 1/9/1858 thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên đánh chiếm Đà Nẵng. Sự kiện này đã mở đầu cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược.
Quân và dân ta đã dũng cảm đương đầu với súng đạn, chiến thuyền của liên quân thực dân Pháp - Tây Ban Nha khi chúng hùng hổ tấn công đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng).
Âm mưu xâm lược nước ta của thực dân Pháp đã có từ lâu, bắt nguồn từ những năm đầu thế kỷ XVII và ngày càng xúc tiến một cách mạnh mẽ, đặc biệt từ giữa thế kỷ XIX.
Tuy nhiên, vào những năm đầu thế kỷ XIX, trong khi Pháp đang lúng túng chưa tìm được chỗ đứng chân vững chắc ở Việt Nam thì năm 1822, Anh quốc sau khi chiếm Singapore năm 1818, đã cử sứ thần đến Huế yêu cầu mở cửa cho Anh vào buôn bán.
Lúc này Pháp đã bị Anh gạt ra khỏi Ấn Độ, nên tình hình trên khiến cho Pháp không khỏi lo lắng lại sẽ mất thị trường ở Việt Nam.
Để có cớ mở cuộc xâm lược, Pháp liên tiếp tiến hành những vụ khiêu khích về quân sự.
Năm 1822 và năm 1825, Pháp hai lần cho tàu chiến vào Đà Nẵng đòi triều đình Huế thả các giáo sĩ bị bắt, đòi tự do buôn bán.
Đến cuối những năm 30, khi nước Anh đã sẵn sàng mở cuộc tấn công quân sự vào lục địa Trung Quốc, thì Pháp càng ráo riết chuẩn bị xâm lược Việt Nam.
Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm (Ảnh: tư liệu). |
Năm 1843, Thủ tướng Pháp Guizot tuyên bố nước Pháp cần có hai đảm bảo ở Viễn Đông, đó là một căn cứ quân sự ở biển Đông và một thuộc địa gần Trung Quốc.
Năm 1845, tướng Pháp là Cécille phái hai tàu chiến vào Đà Nẵng thị uy.
Năm 1847, nhân cơ hội giám mục Lefèbre, vì lén lút trở lại Việt Nam hoạt động, coi thường luật lệ (cấm đạo) hiện hành, bị bắt lần thứ hai và bị kết án tử hình, Cescille lại phái hai tàu chiến tới Đà Nẵng tiến hành khiêu khích...
Sự thị uy của chiến thuyền Pháp tại Đà Nẵng cho thấy nguy cơ Việt Nam bị xâm lược đang tới gần.
Năm 1855, vua Pháp Napoléon III cử sứ thần De Montigny đến Huế với ba chiến thuyền, đòi được "tự do truyền đạo, tự do buôn bán" và tàu Catina (Catinat) do viên thuyền trưởng, trung tá Lelieur chỉ huy, cập bến Đà Nẵng ngày 17/9/1856, đã giễu võ giương oai bằng cách nổ súng bắn phá các pháo đài trấn phòng cửa biển Đà Nẵng.
Trong lúc các tàu chiến Pháp đang lảng vảng ở ven biển Việt Nam, thì nhiều giáo sĩ Pháp ráo riết vận động, thúc giục nhà cầm quyền Pháp đánh chiếm Việt Nam như giám mục Pellerin, giám mục Retord, giáo sĩ E. Huc...
Đầu năm 1857, Napoléon III cho thành lập một Ủy ban nghiên cứu các vấn đề Việt Nam gồm nhiều nhân vật thông thạo về Viễn Đông.
Ủy ban nhóm họp từ cuối tháng 4/1857 và bày tỏ quan điểm là Chính phủ Pháp phải chiếm ba thương cảng chính của Việt Nam là nơi người Pháp thường hay tới buôn bán: Đà Nẵng, Sài Gòn và Kẻ Chợ (tức Hà Nội).
Việc chiếm cứ này sẽ có lợi cho cả ba phương diện tinh thần, chính trị và thương mại; nó phải được thực hiện bởi một hạm đội hoàn toàn không phụ thuộc với hạm đội Pháp lúc này đang hiện diện trong miền biển Đông.
Cuộc viễn chinh đã được quyết định và Phó đề đốc Rigault de Genouilly được giao nhiệm vụ đánh chiếm Đà Nẵng theo chỉ thị ngày 25/11/1857 của Thượng thư Hải quân và Thuộc địa: "Chiếm ngay Đà Nẵng và đóng giữ tại đó".
Đà Nẵng được coi như một cửa ngõ chiến lược để xâm lược Việt Nam.
Qua hai trận tấn công thăm dò và thử lực lượng phòng thủ của triều đình Huế bố trí tại Đà Nẵng: trận thứ nhất vào ngày 15/4/1847 và trận thứ hai vào ngày 26/9/1857, Pháp quyết định đánh chiếm Việt Nam, mà Đà Nẵng được chọn làm khởi điểm; với việc chiếm được hải cảng này, quân Pháp sẽ tiến ra Huế, dự định đánh chiếm kinh đô một cách dễ dàng, nhanh chóng, ít hao tốn tiền của và nhân lực nhất.
Sau khi liên quân Anh - Pháp đánh xong Quảng Châu (ngày 5/1/1858) và dùng áp lực quân sự buộc triều đình phong kiến Trung Quốc ký Hiệp ước Thiên Tân (ngày 27/6/1858), Chính phủ Pháp điều động thiếu tướng hải quân Ri-gôn Đờ Giơ-nuy-in (Rigault De Genouilly) sang xâm lược Việt Nam.
Ri-gôn Đờ Giơ-nuy-in, thiếu tướng tổng chỉ huy lực lượng hải quân Pháp trên vùng biển Đông được phong Phó Thủy sư Đô đốc ngày 9/8/1858, trước khi lên đường sang Việt Nam, giữ chức Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Mỹ tại Việt Nam từ ngày 1/9/1858 đến ngày 1/11/1859.
Ngày 30/8/1858, chiến hạm Pháp đến đóng tại đảo Hải Nam để hội quân cùng chiến hạm Tây Ban Nha do đại tá Lan-da-rốt (Lanzarote) chỉ huy.
Pháp và Tây Ban Nha liên minh quân sự với nhau vì trong số các giáo sĩ nước ngoài bị triều đình Huế giam giữ, giết hại hồi đó có một số người Tây Ban Nha.
Tư bản Tây Ban Nha cũng nhiều lần dòm ngó các vùng Đồ Sơn, Quảng Yên ngoài Bắc, nên Nữ hoàng Tây Ban Nha là Idaben II (Isabelle II) sẵn sàng câu kết với Pháp trong cuộc viễn chinh này để kiếm lời.
Từ chiều ngày 31/8/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha gồm 2.950 tên với 14 tàu chiến được trang bị vũ khí thuộc loại hiện đại trong đó có các khẩu đại bác có sức công phá lớn và khả năng sát thương cao, đã kéo đến dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng (Đà Nẵng lúc này thuộc tỉnh Quảng Nam).
Mờ sáng ngày hôm sau (1/9/1858), chúng cho người mang tối hậu thư buộc trấn thủ Trần Hoàng phải trả lời ngay trong vòng hai giờ.
Tuy nhiên không đợi hết hạn, chúng đã ra lệnh cho tàu chiến bắn đại bác lên các đồn Điện Hải, An Hải của triều đình suốt trong ngày hôm đó. Tiếp theo, chúng cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.
Chọn Đà Nẵng làm mục tiêu đầu tiên, thực dân Pháp nhằm đạt mấy mục đích sau: cửa biển nơi đây tương đối sâu rộng nên tàu chiến chúng có thể ra vào dễ dàng; hậu phương Quảng Nam giàu có và đông dân có thể chúng thực hiện khẩu hiệu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; trông chờ vào sự ủng hộ của giáo dân vùng này mà bọn gián điệp đội lốt giáo sĩ hoạt động trong đất liền đã báo cáo là khá mạnh.
Chỉ trong ngày đầu nổ súng, hầu hết những đồn phòng thủ của triều đình Huế ở phía đông sông Hàn đều bị hạ.
Sáng ngày 2/9/1858, địch tiếp tục pháo kích tấn công thành Điện Hải và đổ quân chiếm khu vực phía tây. Một phòng tuyến được lập ở phía Hòa Vang để ngăn địch.
Diễn biến của trận đánh cho thấy địch không thể phát huy được sức mạnh của binh khí kỹ thuật để tấn công ồ ạt, mà bị chặn ngay ở cửa biển Đà Nẵng.
Đây là kết quả của sự kháng cự quyết liệt của lực lượng đồn thủ dưới sự chỉ huy của một triều đình lúc đó còn toàn vẹn sinh lực, với quyết tâm cao và khối đoàn kết toàn dân. Ngoài quân chủ lực của triều đình còn có sự tham gia của dân binh sở tại.
Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, trên cương vị là Tổng thống quân vụ đại thần, Lê Đình Lý đã trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp đầu tiên của quân dân Đà Nẵng.
Ông bị trọng thương trong trận kịch chiến ở Cẩm Lệ và sau đó hy sinh. Lê Đình Lý là vị tướng của triều đình nhà Nguyễn đầu tiên hy sinh tại mặt trận Đà Nẵng.
Sau khi Tổng đốc Lê Đình Lý hy sinh, vua Tự Đức đã cử Thống chế Chu Phúc Minh làm Tổng đốc quân vụ thay Lê Đình Lý.
Mặt khác, Tự Đức điều Nguyễn Tri Phương, võ tướng số một của triều đình lúc đó, đang làm Kinh lược sứ Nam Kỳ ra chỉ huy mặt trận Đà Nẵng, thay cho Chu Phúc Minh.
Là một võ quan có tài thao lược, ngay từ đầu Nguyễn Tri Phương đã đánh giá tình hình một cách đúng đắn và đề ra một phương thức phòng thủ và đánh địch năng động, thích hợp.
Ông không chủ trương tiến công địch chính diện để tránh sức mạnh hỏa lực của địch mà bao vây chặn địch ở ven biển, tăng cường phục kích đánh địch, không cho địch tiếp xúc với dân, thực hiện “vườn không nhà trống”, cô lập, triệt đường tiếp tế cung cấp lương thực tại chỗ của chúng và cho đắp phòng tuyến Liên Trì.
Cũng trong tháng 9/1858, Trần Nhật Hiển, đội trưởng doanh Kỳ Vũ, một võ quan cấp thấp của triều đình Huế, đã hiến mật kế để đánh giặc Pháp.
Triều đình chấp thuận, cho thi hành: làm dây xích sắt chắn ngầm ngang các dòng sông và cửa biển Thuận An, Tư Hiền, dùng thuyền nhỏ phục kích những nơi hiểm yếu.
Cùng thời gian này, quân và dân tỉnh Quảng Nam dùng sọt tre, thùng gỗ chứa đất, đá lấp dòng sông Vĩnh Điện để ngăn chặn đường tiến quân của giặc Pháp.
Dòng sông bị lấp, thế nước sẽ dồn về cửa biển Đại Chiêm, do đó miền hạ lưu sẽ cạn, thuyền giặc không thể vào được, quân và dân ta chỉ còn lo tập trung phòng bị mặt đường bộ.
Tháng 11/1858, chiến thuyền của Pháp tiến vào sông Hàn và sông Nại Hiên (Quảng Nam) đã bị quân dân ta dưới sự chỉ huy của Đào Trí và Nguyễn Duy phục kích đánh lui.
Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947, bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Pháp |
Ít ngày sau, giặc Pháp lại đem 8 thuyền chiến tiến vào sông Nại Hiên lần nữa và cũng bị quân dân ta do Nguyễn Tri Phương chỉ huy đánh bại, buộc phải tháo chạy.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, lòng dân cả nước hướng về Đà Nẵng đầy niềm lo âu và tinh thần trách nhiệm cao.
Ở Lục tỉnh, quân cơ Trương Định chiêu mộ trai tráng lập đội nghĩa binh; Phạm Văn Nghị - đốc học Nam Định hăng hái tập hợp 300 "thân biền binh dũng" nhanh chóng đến Huế xin nhà vua cho ra trận giết giặc.
Cho đến hết năm 1858, quân Pháp vẫn không sao mở rộng được địa bàn chiếm đóng để phá vỡ thế phòng thủ của ta, thực hiện chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh.
Tiến thoái đều không được, Ri-gôn Đờ Giơ-nuy-in (lúc này được phong làm Đô đốc), bèn quyết định chuyển hướng tiến công vào Gia Định.
Đầu tháng 2/1859, quân Pháp chỉ để lại ở Đà Nẵng một phần ba lực lượng do đại tá hải quân Toa-yông (Toyou) chỉ huy.
Tương quan lực lượng tại Đà Nẵng lúc này đã thay đổi, tạo thế thuận lợi cho ta. Lại thêm yếu tố thời tiết và khí hậu khắc nghiệt ở nơi đây đã làm cho quân địch thêm khốn đốn, gần như tước mất sức chiến đấu của chúng, như một chỉ huy quân Pháp đã thú nhận là "trên mảnh đất nóng cháy này, các binh sĩ của ta gục ngã, cầm không nổi khí giới".
Những toán viện binh sau đó cũng bị hao mòn vì bệnh truyền nhiễm và khí hậu oi bức, cộng thêm sự căng thẳng thần kinh do các cuộc tập kích hàng đêm vào các cứ điểm của quân triều đình và dân binh.
Kết cục, sau 18 tháng đánh chiếm Đà Nẵng (từ 1/9/1858 đến 23/3/1860), Pa-giơ - thiếu tướng tổng chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha được lệnh của Chính phủ Pháp rút hết quân ra khỏi Đà Nẵng để đưa sang hỗ trợ cho chiến trường Trung Quốc.
Trước khi rút quân, thiếu tướng Pa-giơ đã ra lệnh đốt hết các đồn trại ở Sơn Trà, An Hải, Điện Hải, Trà Úc, chỉ để lại bên phía đông hòn Mẻ Diều bán đảo Sơn Trà một nghĩa địa và hàng trăm nấm mồ nằm rải rác.
Có thể coi đây là thắng lợi lớn và duy nhất ở mặt trận Đà Nẵng trong hơn một phần tư thế kỷ chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, từ 1858 đến 1884.
Trận đánh có ý nghĩa cả về quân sự và chính trị. Chính đô đốc Ri-gôn Đờ Giơ-nuy-in đã phải thốt lên: "Nếu chiến tranh cứ tiếp tục theo kiểu này thì sẽ kéo dài hàng trăm năm".
Tài liệu tham khảo:
- Dương Kinh Quốc, Việt Nam - Những sự kiện lịch sử 1858 - 1945, Tập I: 1858 - 1896, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1981.
- Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội - 2006.
- Hỏi đáp Lịch sử Việt Nam, Tập 4, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh - 2007.